Mục lục
Khái quát sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân
Tác giả: Nguyễn Thị Phương
Là một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân cùng với Tòa án nhân dân được hình thành gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của Nhà nước trong mỗi giai đoạn, góp phần đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, chế độ xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 chưa quy định thành lập cơ quan kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước mà thuộc hệ thống cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của cách mạng, Nhà nước đã kịp thời ban hành những văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố.
Xem thêm bài viết về “Sự ra đời và phát triển”
- Khái quát sự ra đời và phát triển của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – ThS. Phạm Thị Tình
- Sự ra đời và phát triển của chế định Nguyên thủ quốc gia – TS. Phạm Quý Tỵ
- Quá trình hình thành và phát triển của Chế định bầu cử ở Việt Nam – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Khái quát sự ra đời và phát triển của Quốc hội ở nước ta – PGS.TS. Tô Văn Hòa & ThS. Phạm Đức Bảo
- Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Hiến pháp 2013 – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
1. Giai đoạn Hiến pháp 1946
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Ngày 03/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 33-A quy định rõ: “Mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông Biện lý biết”. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về chức danh biện lý trong cơ quan công tố (còn gọi là thẩm phán buộc tội). Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 3/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán. Điều 15 Sắc lệnh quy định: Toà án đệ nhị cấp gồm có: một chánh án, một biện lí, một dự thẩm… Biện lý ngồi ghế công tố viên đọc cáo trạng. Sắc lệnh quy định có 7 hạng thẩm phán buộc tội tương ứng với 7 hạng thẩm phán xử án. Tiếp theo, trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định thẩm quyền các tòa án và phân công giữa các nhân viên trong tòa án, trong đó dành Mục C quy định nhiệm vụ của biện lý như quyền khởi tố trạng (Điều 23), quyền kháng cáo (Điều 24), quyền đảm nhận công việc quản trị Tòa án, điều khiển và kiểm sát công việc của tất cả các nhân viên trong Tòa từ các vị thẩm phán xét xử (Điều 31).
Năm 1950, Đảng và Nhà nước tiến hành cuộc cải cách tư pháp, thành lập Tòa án nhân dân các cấp. Tổ chức và hoạt động của viện công tố có sự thay đổi cơ bản. Điều 15 Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định: “Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc hình”. Biện lý chỉ chuyển hồ sơ sang phòng dự thẩm điều tra thêm về vụ phạm pháp nếu xét cần. Ngày 07/6/1950, Thủ tướng Chính phủ ra Thông tư số 21/TTg và Thông tư liên bộ số 18/BKT-TT ngày 08/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp quy định quyền quản lí, chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban kháng chiến hành chính đối với viện công tố địa phương: “Uỷ ban các cấp điều khiển viện công tố trong địa hạt mình, Uỷ ban kháng chiến hành chính có thể ra mệnh lệnh cho viện công tố. Đại diện viện công tố phải tuân theo mệnh lệnh của Uỷ ban”.
Xem thêm bài viết về “Viện kiểm sát”
- Nghiên cứu so sánh về Cơ cấu tổ chức của Viện Kiểm sát giữa Việt Nam và Trung Quốc – TS. Ngũ Hồng Quang
- Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay – ThS. Lê Ngọc Duy
- Các bước để trở thành Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp 2013 – Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Hiến pháp 2013 và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 – TS. Phan Nhật Thanh
2. Giai đoạn Hiến pháp 1959
Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, viện công tố từng bước được kiện toàn và phát triển. Năm 1959, thực hiện theo tinh thần các văn bản: Nghị quyết ngày 29/9/1958 của Quốc hội khóa I, Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 và Nghị định số 321/TTg ngày 02/7/1959 của Chính phủ, các viện công tố được tổ chức thành hệ thống gồm: Viện công tố trung ương, viện công tố địa phương (tỉnh, huyện, quân sự) trong đó, viện công tố trung ương thuộc Chính phủ có trách nhiệm, quyền hạn ngang như một bộ. Tiếp đó, ngày 31/12/1959, Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp năm 1959. Nếu như do hoàn cảnh lịch sử, Hiến pháp năm 1946 chưa quy định về cơ quan công tố thì Hiến pháp năm 1959 dành Chương VIII (từ Điều 105 đến 108) quy định về Viện kiểm sát nhân dân – một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước. Ngày 26/7/1960, Lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà số 20/LCT công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và ngày 18/4/1962, Chủ tịch nước ban hành Lệnh số 12/LCT về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Giai đoạn Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992
Kể từ đó đến nay, Viện kiểm sát nhân dân trở thành một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được quy định trong Chương X Hiến pháp năm 1980, 1992. Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Nhà nước trong giai đoạn mới, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi bản Hiến pháp năm 1992. Sau một thời gian lấy ý kiến của nhân dân, bản Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 và Chủ tịch nước công bố ngày 08/12/2013, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014.
4. Giai đoạn Hiến pháp 2013
Hiến pháp mới dành Chương VIII quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. So với các bản hiến pháp trước đó, những quy định của Chương VIII Hiến pháp năm 2013 có nhiều thay đổi, vừa đảm bảo tính kế thừa, vừa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bộ máy nhà nước./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời