Mục lục
Chính sách nhà nước về lâm nghiệp theo Luật Lâm nghiệp 2017: Bài viết tập trung phân tích, đánh giá và làm rõ một số điểm mới trong chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp theo quy định của Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành…
- Tổ chức và hoạt động của sở ngoại vụ thuộc UBND cấp tỉnh – Thực trạng và kiến nghị – ThS. Nguyễn Thị Cẩm Hồng
- Một số ý kiến về hoạt động ban hành VBQPPL của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh – TS. Nguyễn Thị Ngọc Mai
- So sánh, phân biệt và phân loại các cơ quan hành chính nhà nước
- Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam 2013 – PGS.TS. Trương Đắc Linh & TS. Nguyễn Mạnh Hùng
- Cơ quan hành chính nhà nước là gì?
- Cơ quan nhà nước là gì? Phân tích khái niệm và đặc điểm của Cơ quan nhà nước?
TỪ KHÓA: Chính sách nhà nước, Luật Lâm nghiệp 2017,
TÓM TẮT
Luật Lâm nghiệp năm 2017 (Luật LN năm 2017) ra đời và có hiệu lực được xem là một bước tiến quan trọng trong kỹ thuật lập pháp điều chỉnh về các vấn đề lâm nghiệp tại Việt Nam trên cơ sở khắc phục những hạn chế, bất cập trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (Luật BV&PTR năm 2004). Bài viết tập trung phân tích, đánh giá và làm rõ một số điểm mới trong chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp theo quy định của Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1. Chính sách nhà nước về lâm nghiệp
Luật BV&PTR năm 2004 được Quốc hội Khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2005. Các chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng cũng đã được cụ thể hóa tại Điều 10 Luật BV&PTR năm 2004. Điều này đã thiết lập được cơ sở vững chắc trong việc tạo ra khuôn khổ pháp lý quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. Các chính sách này đã góp phần hoàn thành mục tiêu chuyển từ nền lâm nghiệp lấy quốc doanh là chủ yếu sang nền lâm nghiệp nhân dân, đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia; kinh tế lâm nghiệp chuyển từ chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng rừng tự nhiên sang bảo vệ, phục hồi rừng tự nhiên và trồng rừng mới, gắn phát triển kinh tế lâm nghiệp với phát huy vai trò môi trường sinh thái, quốc phòng an ninh và an sinh xã hội. Nhờ đó, diện tích rừng từ 12,306 triệu ha với độ che phủ rừng 37% năm 2004 tăng lên đến năm 2015 diện tích rừng là 14,061 triệu ha với độ che phủ rừng 40,84%; sản lượng gỗ rừng trồng hàng năm đạt khoảng 17 triệu m3, kim ngạch xuất khẩu lâm sản đạt 7,1 tỷ USD.[1] Tuy nhiên, cùng với xu thế phát triển chung của Việt Nam và thế giới, ngành lâm nghiệp đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Các chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp được quy định trong Luật BV&PTR năm 2004 tỏ ra lạc hậu, lỗi thời, nhiều nội dung không còn phù hợp với tình hình thực tiễn dẫn đến xuất hiện tình trạng tiêu cực trong hoạt động lâm nghiệp. Đó là các vấn nạn về tình trạng phá rừng diễn ra ngày càng phổ biến, vấn đề suy giảm rừng tự nhiên, lấn chiếm đất rừng còn diễn ra phức tạp; sản xuất lâm nghiệp bị chia cắt thành các giai đoạn riêng lẻ, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp; công nghiệp chế biến lâm sản chủ yếu nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, năng suất, giá trị gia tăng thấp; đóng góp của ngành lâm nghiệp trong nền kinh tế của cả nước chưa cao, thu nhập của người làm nghề rừng thấp… Tất cả những vẫn đề trên không chỉ gây ảnh hưởng đến hiệu quả của ngành lâm nghiệp mà còn gây tác động tiêu cực đến tình hình phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Vì vậy, các chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp cũng cần phải có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong thời đại mới để nâng cao giá trị, hiệu quả quản lý rừng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, phát triển lâm nghiệp, ngăn chặn tốt hơn tình trạng phá rừng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người làm nghề rừng và xây dựng nông thôn mới.[2]
Bên cạnh đó, nhằm để kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về lâm nghiệp.[3] Cũng như để phù hợp với quan điểm chỉ đạo lâm nghiệp là ngành kinh tế – xã hội tổ chức sản xuất kinh doanh theo chuỗi liên kết phù hợp với các mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gồm tất cả các hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ của rừng, chuỗi giá trị lâm nghiệp từ quản lý, bảo vệ, khôi phục phát triển rừng đến khai thác, chế biến và thương mại lâm sản. Đồng thời, để bảo đảm vấn đề định khung cơ chế, chính sách tạo nguồn và thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư cho lâm nghiệp, bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, chủ rừng và cộng đồng dân cư; tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trên cơ sở phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính liên tục thống nhất, đồng bộ giữa quy định của pháp luật trên cơ sở hài hòa với các điều ước quốc tế có liên quan phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong hoạt động lâm nghiệp.[4] Vì vậy, việc điều chỉnh, đổi mới chính sách về lập nghiệp là cấp thiết và quan trọng.
2. Luật Lâm nghiệp cụ thể hóa các chính sách của nhà nước về lâm nghiệp
Để hoạt động lâm nghiệp đạt được chất lượng hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu phát triển bền vững, đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư phù hợp và nguồn lực xã hội đầy đủ. Xuất phát từ đó, Luật LN năm 2017 đã quy định Nhà nước phải có chính sách đầu tư và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp, các chính sách này đòi hỏi phải gắn liền và đồng bộ với chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh.[5] Quy định này có sự kế thừa trên cơ sở các chính sách của Nhà nước về rừng được quy định tại Điều 10 của Luật BV&PTR năm 2004. Tuy nhiên, cách quy định trong Luật LN năm 2017 súc tích, rõ ràng, bao quát hơn. Theo đó, Nhà nước phải bảo đảm nguồn ngân sách đầu tư cho các hoạt động bảo vệ và phát triển lâm nghiệp; duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ vào hoạt động lâm nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, huy động, hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư tham gia vào hoạt động quản lý và phát triển lâm nghiệp. Việc xác định rõ ràng về mặt chính sách đầu tư, huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp nêu trên sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động lâm nghiệp ngày càng đi vào ổn định và phát triển theo đúng định hướng đặt ra trong thời kỳ mới.
Mặc khác, Luật LN năm 2017 còn khẳng định việc xây dựng và thực hiện các chính sách đầu tư, huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp phải gắn liền với chính sách phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh quốc gia. Đây là một nội dung mới so với quy định trước kia, điều này thể hiện sự tiến bộ về mặt chính sách, bởi trên thực tế hoạt động lâm nghiệp phát triển không tách rời với chính sách phát triển kinh tế xã hội cũng như đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh, quốc phòng. Hoạt động lâm nghiệp, đặc biệt là các hoạt động kinh tế lâm nghiệp nếu được bảo đảm phát triển theo đúng định hướng sẽ đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và ngược lại. Đồng thời, bên cạnh những giá trị lợi ích về mặt kinh tế, hoạt động lâm nghiệp, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến khai thác, quản lý và bảo vệ rừng sẽ đóng vai trò quan trọng trong vấn đề bảo đảm an ninh, quốc phòng, đặc biệt là các khu vực rừng biên giới. Vì vậy, việc gắn kết và đồng bộ giữa chính sách đầu tư và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp với chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh là yêu cầu cần thiết nhằm bảo đảm phát triển bền vững trong hoạt động lâm nghiệp.
Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là những loại rừng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và các yếu tố cấu thành môi trường. Trong đó, rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, bảo vệ môi trường, hạn chế xâm nhập mặn, chắn cát… Còn rừng đặc dụng là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, bảo vệ nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi, du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, việc bảo đảm nguồn lực để phục vụ cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đóng vai trò rất quan trọng và cần được Nhà nước bảo đảm. Nếu như trong Luật BV&PTR năm 2004 quy định các chủ thể được xem là nguồn lực để phục vụ cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ chỉ bao gồm các chủ thể như: Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm nghiệp[6] thì trong Luật LN năm 2017 đã có sự mở rộng nguồn lực để phục vụ cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Cụ thể, ngoài đối tượng là các chủ thể nêu trên thì cộng đồng dân cư cũng được xem là một trong những nguồn lực quan trọng được Nhà nước giao rừng phòng hộ, rừng đặc dụng để thực hiện các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển.[7] Việc Luật LN năm 2017 quy định giao rừng và đất lâm nghiệp cho các cộng đồng dân cư là một bước chuyển biến căn bản trong chính sách quản lý, bảo vệ rừng, góp phần thúc đẩy các mô hình quản lý rừng cộng đồng đã và đang được thừa nhận ở nhiều địa phương hiện nay. Mô hình này được xem là giải pháp phù hợp về mặt chính sách vì vừa thúc đẩy quản lý, sử dụng tài nguyên rừng bền vững, vừa hỗ trợ cải thiện sinh kế cho người dân ở khu vực nông thôn, đặc biệt là đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa, đồng thời còn bổ sung nguồn lực cần thiết để thực hiện hiệu quả hoạt động quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và lâm nghiệp. Như vậy, việc Luật LN năm 2017 quy định thừa nhận cộng đồng dân cư cũng là một trong những nguồn lực tham gia vào việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là một trong những điểm mới quan trọng, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong việc bảo đảm nguồn lực nhằm phục vụ hiệu quả cho các hoạt động lâm nghiệp nói chung và hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng nói riêng.
3. Điểm mới của Luật Lâm nghiệp 2017 so với Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004
Nếu như Luật BV&PTR năm 2004 xác định chủ rừng chỉ có quyền sử dụng, sở hữu rừng khi được Nhà nước giao và công nhận thì Luật LN năm 2017 đã thể chế hóa cụ thể chế định sở hữu rừng theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Theo đó, Luật LN năm 2017 đã quy định rõ hai nhóm hình thức sở hữu rừng là: (i) rừng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu gồm rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước đầu tư toàn bộ, rừng trồng do Nhà nước thu hồi, được tặng cho hoặc trường hợp chuyển quyền sở hữu rừng trồng khác theo quy định của pháp luật; (ii) rừng thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư gồm rừng sản xuất là rừng trồng do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đầu tư; nhận chuyển nhượng, tặng cho, nhận thừa kế rừng từ chủ rừng khác theo quy định của pháp luật.[8] Việc Nhà nước công nhận quyền sở hữu của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đối với rừng sản xuất là rừng trồng do họ tự đầu tư hoặc nhận chuyển nhượng, tặng, cho, thừa kế rừng từ chủ rừng khác theo quy định của pháp luật là một trong những điểm mới nổi bật của Luật LN năm 2017.[9] Điều này cũng có nghĩa là hộ gia đình và cộng đồng dân cư sở hữu rừng trồng sẽ có đầy đủ các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với rừng trồng do họ tự đầu tư. Như vậy, việc quy định rõ các hình thức sở hữu rừng đã góp phần thừa nhận thành quả lao động, kết quả đầu tư của người làm nghề rừng; tạo động lực khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào rừng nghèo và hưởng lợi từ rừng; bảo đảm quản lý rừng tốt hơn, hiệu quả hơn. Hơn nữa, từ quan điểm về quyền sở hữu như vậy, một loạt các chế định khác từ quản lý cho tới chế độ chính sách đối với các chủ rừng cũng sẽ phải thay đổi theo hướng phù hợp với yêu cầu bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư khi tham gia vào hoạt động lâm nghiệp.
Bên cạnh đó, Luật LN năm 2017 cũng mở rộng tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho các tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư và hộ gia đình cá nhân. Luật LN năm 2017 thừa nhận tổ chức kinh tế được tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm khai thác, bán gỗ theo phương án quản lý rừng bền vững được cấp có thẩm quyền phê duyệt; được thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng để sản xuất, kinh doanh, chế biến lâm sản, được đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi trên đất lâm nghiệp.[10] Đối với cộng đồng dân cư, Luật LN năm 2017 công nhận cộng đồng dân cư là chủ rừng và được Nhà nước bảo đảm kinh phí để bảo vệ và phát triển rừng, được hướng dẫn sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; được canh tác dưới tán rừng, chăn thả gia súc theo quy chế quản lý rừng; được hỗ trợ phát triển kinh tế rừng, hỗ trợ phục hồi rừng bằng cây lâm nghiệp bản địa; được khai thác lâm sản trong rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là rừng tín ngưỡng, rừng sản xuất; được chia sẻ lợi ích từ rừng theo chính sách của Nhà nước; được sở hữu cây trồng, vật nuôi và tài sản khác trên đất trồng rừng do chủ rừng đầu tư.[11] Đối với hộ gia đình, cá nhân, Luật LN năm 2017 ghi nhận các quyền của hộ gia đình, cá nhân đối với rừng sản xuất là rừng trồng như quyền được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư; đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên được giao, được thuê thì sẽ có các quyền như được chuyển đổi, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng tại thời điểm giao, cho thuê rừng là rừng tự nhiên nghèo và mới phục hồi để khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân nhận quản lý, bảo vệ các diện tích rừng này. Ngoài ra, Luật LN năm 2017 thừa nhận hộ gia đình, cá nhân được quyền khai thác lâm sản trên diện tích rừng sản xuất và phòng hộ được giao, được thuê theo phương án quản lý rừng bền vững được cấp có thẩm quyền phê duyệt; được thực hiện và hưởng lợi từ các dịch vụ môi trường rừng để tạo thêm nguồn thu nhập cho các hộ gia đình…[12] Như vậy, có thể thấy rằng, nội dung quy định của Luật LN năm 2017 đã thể hiện rõ chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp một cách tối đa, hiệu quả.
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước dành cho các chủ thể trong hoạt động lâm nghiệp là rất quan trọng, điều này quyết định đến hiệu quả, chất lượng của hoạt động lâm nghiệp. Để cụ thể các chính sách đó, bên cạnh ghi nhận trong Luật LN năm 2017, Nhà nước đã ban hành Nghị định số 156/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật LN năm 2017. Trong đó, Nghị định quy định rõ những chính sách đầu tư bảo vệ, phát triển rừng và các hoạt động liên quan đến lâm nghiệp của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước bảo đảm ngân sách đầu tư cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng sản xuất; nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp; xây dựng khu nghiên cứu phát triển, khu công nghệ cao; mua sắm phương tiện, trang thiết bị; bảo vệ, quan trắc, cảnh báo nguy cơ cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia, điều tra cơ bản về lâm nghiệp, xây dựng các chương trình, đề án phát triển lâm nghiệp; điều tra, kiểm kê, theo dõi diễn biến và cơ sở dữ liệu rừng; bảo vệ và phát triển rừng sản xuất là rừng tự nhiên trong thời gian đóng cửa rừng; duy trì và phát triển rừng giống, vườn thực vật quốc gia theo kế hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Cùng với đó, Nhà nước còn hỗ trợ đầu tư cho các hoạt động chuyển giao công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, khuyến lâm và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững; phát triển kết cấu hạ tầng gắn với đầu tư phát triển, kinh doanh rừng sản xuất theo chuỗi giá trị; hợp tác, liên kết bảo vệ và phát triển rừng của đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư gắn với chương trình phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nông thôn mới; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho chủ rừng; xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường, thương mại trong hoạt động lâm nghiệp; mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về lâm nghiệp. Đồng thời, Nhà nước còn bảo đảm chính sách ưu đãi đầu tư cho phát triển rừng sản xuất ở những vùng đất trống, đồi núi trọc; trồng rừng gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn; phát triển lâm sản ngoài gỗ; phục hồi rừng tự nhiên; phát triển giống cây lâm nghiệp công nghệ cao và các hoạt động đầu tư khác được hưởng ưu đãi theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công.
Bên cạnh đó, Luật LN năm 2017 xác định chính sách quản lý rừng bền vững là nguyên tắc xuyên suốt của hoạt động lâm nghiệp. Theo đó, rừng được quản lý bền vững cả về diện tích rừng, chất lượng rừng, bảo đảm hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học, nâng cao giá trị dịch vụ môi trường rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó, chủ rừng cũng phải thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý rừng bền vững, bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài, liên tục; tối ưu hóa hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường. Đây là một quy định mới trong chính sách nhà nước về lâm nghiệp ở khía cạnh phát triển bền vững mà trước đây Luật BV&PTR năm 2004 chưa đề cập cụ thể.
Hơn nữa, Luật LN năm 2017 cũng bổ sung quy định về chính sách phát triển dịch vụ môi trường rừng, đây là điểm tiến bộ so với Luật BV&PTR năm 2004. Cụ thể, Luật LN năm 2017 đã luật hóa Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng thông qua việc quy định cụ thể các loại dịch vụ, nguyên tắc chi trả dịch vụ môi trường rừng; đối tượng, hình thức chi trả và quản lý, sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng; quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng và bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Quy định về chính sách phát triển dịch vụ môi trường rừng là điểm rất mới của Luật LN năm 2017, điều này tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc chuyển hướng từ khai thác lợi ích trước mắt sang khai thác lợi ích tiềm năng của rừng; từ sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ sang sản phẩm phi gỗ, tạo nguồn tài chính bền vững để đầu tư trực tiếp vào rừng, tăng thu nhập cho người làm nghề rừng.
Ngoài ra, nếu Luật BV&PTR năm 2004 chưa đề cập đến vấn đề chế biến và thương mại lâm sản thì Luật LN năm 2017 đã quy định rõ chính sách phát triển lâm sản theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp hợp tác, liên doanh, liên kết với chủ rừng để tạo vùng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến và các giải pháp tăng trưởng xanh, nâng cao giá trị gia tăng, ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chế biến lâm sản. Luật LN năm 2017 cũng quy định việc chế biến mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng hoang dã nguy cấp thuộc các phụ lục của Công ước CITES; quy định việc xây dựng và vận hành hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam; ban hành tiêu chí, quy trình, thủ tục, thẩm quyền phân loại doanh nghiệp khai thác, vận chuyển, tiêu thụ, chế biến, xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ; quy định về chính sách phát triển thị trường lâm sản, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, cung cấp thông tin thị trường lâm sản trong nước và quốc tế để phục vụ hiệu quả cho hoạt động chế biến và thương mại lâm sản.
So với Luật BV&PTR năm 2004, Luật LN năm 2017 đã ghi nhận chính sách nhà nước khuyến khích sản xuất kết hợp giữa nông, lâm, ngư nghiệp. Đây là một điểm mới quan trọng có giá trị làm nền tảng thúc đẩy các chủ thể trong xã hội phát triển các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp. Để cụ thể hóa chính sách này, tại Điều 57 Luật LN năm 2017 quy định các chủ thể khi được Nhà nước giao rừng phòng hộ sẽ được trồng xen cây nông nghiệp, cây lâm sản ngoài gỗ; chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng, không làm ảnh hưởng khả năng phòng hộ của rừng; được sử dụng diện tích đất chưa có rừng để sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp kết hợp, không làm ảnh hưởng khả năng phòng hộ của rừng. Việc sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp trong rừng phòng hộ thực hiện theo quy chế quản lý rừng và quy định khác của pháp luật có liên quan. Đối với rừng sản xuất, các chủ thể được phép trồng xen cây nông nghiệp, cây lâm sản ngoài gỗ; chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng, không làm suy giảm chất lượng rừng; được sử dụng diện tích đất chưa có rừng để sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp kết hợp, không làm thoái hóa, ô nhiễm đất; không chuyển mục đích sử dụng đất rừng; được kết hợp kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí, nghiên cứu khoa học, giảng dạy, thực tập; được tự tổ chức, hợp tác, liên doanh, liên kết hoặc cho tổ chức, cá nhân thuê rừng, thuê môi trường rừng phù hợp với quyền của chủ rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí; được xây dựng công trình phục vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí.[13] chính sách được cụ thể hóa nêu trên góp phần rất lớn vào việc mang lại hiệu quả cho hoạt động lâm nghiệp trên cơ sở kết hợp với hoạt động nông nghiệp và ngư nghiệp nhằm tận dụng mọi nguồn lực sẵn có để phục vụ hiệu quả vào hoạt động phát triển kinh tế lâm nghiệp nói riêng và hoạt động phát triển kinh tế nói chung.
Đồng thời, Nhà nước còn khuyến khích sản xuất lâm nghiệp hữu cơ, đây là điểm mới trong quy định chính sách nhà nước về lâm nghiệp. Quy định này là nền tảng để Nhà nước hoạch định các chính sách phát triển hoạt động sản xuất lâm nghiệp hữu cơ và là cơ sở để thúc đẩy các chủ thể trong xã hội tăng cường các hoạt động sản xuất lâm nghiệp hữu cơ. Sản xuất lâm nghiệp hữu cơ là một hệ thống kỹ thuật lâm nghiệp kết hợp hướng đến sự phát triển bền vững dựa trên cơ sở tăng cường độ phì của đất và sự đa dạng sinh học. Theo đó, trong quá trình sản xuất lâm nghiệp hữu cơ thay vì sử dụng thuốc trừ sâu bệnh tổng hợp, thuốc kháng sinh, phân bón tổng hợp, sinh vật biến đổi gen, hoóc-môn tăng trưởng thì sẽ chủ yếu sử dụng các loại phân bón có nguồn gốc hữu cơ như phân từ gia súc gia cầm, phân xanh, phân trộn, bột xương nhằm tăng độ phì cho đất bằng nhóm cây trồng có tác dụng cải tạo đất. Nhấn mạnh vào các kỹ thuật luân canh giống cây trồng, kiểm soát dịch hại sinh học, sử dụng xen canh cây trồng khắc chế dịch hại hoặc khuyến khích sự tồn tại động vật là thiên địch của sâu bệnh dịch hại. Việc ghi nhận chính sách khuyến khích sản xuất lâm nghiệp hữu cơ không chỉ mang lại hiệu quả về mặt kinh tế mà còn góp phần rất lớn vào việc bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường.
Bên cạnh đó, bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng cũng là một trong những chính sách mới trong Luật LN năm 2017 nhằm khuyến khích các chủ thể tham gia bảo hiểm trong hoạt động lâm nghiệp. Đây là một chính sách mới và hợp lý bởi bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ rừng trước các nguy cơ rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là những rủi ro liên quan đến vấn đề thời tiết, khí hậu, sự cố cháy rừng… Khi tham gia bảo hiểm, nếu xảy ra các sự kiện bảo hiểm chủ rừng sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán lại các khoản giá trị bị ảnh hưởng thiệt hại nhằm giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra đối với các chủ rừng và chủ sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.
Như vậy, có thể thấy rằng, chính sách Nhà nước khuyến khích sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; sản xuất lâm nghiệp hữu cơ; bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng là một trong những chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp khá mới mẻ và cần thiết, góp phần quan trọng vào việc định hướng, khuyến khích, tận dụng mọi yếu tố để phát triển ngành kinh tế lâm nghiệp trên cơ sở kết hợp với nông, ngư nghiệp, bảo vệ môi trường nhưng vẫn bảo đảm được quyền lợi của các chủ thể trước những rủi ro có thể xảy ra.
Đây là một nội dung mới của Luật LN năm 2017 trong chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp mà Luật BV&PTR năm 2004 không quy định. Nếu như Luật BV&PTR mới chỉ dừng lại quy định ở mức Nhà nước khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát triển rừng ở những vùng đất trống, đồi núi trọc[14] thì Luật LN năm 2017 đã khẳng định Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất.[15] Theo đó, tại khoản 8, Điều 14 Luật LN năm 2017 quy định khi giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng thì phải tôn trọng không gian sinh tồn, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư; ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống gắn bó với rừng, có hương ước, quy ước phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, Nhà nước còn có chính sách hỗ trợ đầu tư cho các hoạt động hợp tác, liên kết bảo vệ và phát triển rừng của đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư gắn với chương trình phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nông thôn mới.[16] Như vậy, Luật LN năm 2017 đã thể hiện sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển lâm nghiệp. Đây là một chính sách hoàn toàn mới, phù hợp và tiến bộ với thực tiễn bởi điều này xuất phát từ thực tiễn, nước ta có ¾ diện tích tự nhiên đất liền là đồi núi, đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của hơn 14 triệu đồng bào các dân tộc thiểu số, những người sống gắn bó với rừng và tạo thu nhập chủ yếu từ nghề rừng, từ sản xuất nương rẫy nên phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số là những cử tri có ảnh hưởng sâu sắc từ sự điều chỉnh của chính sách này.[17] Hơn nữa, cộng đồng các dân tộc thiểu số sinh sống gắn với rừng từ ngàn đời, có những bản sắc văn hóa và phong tục tập quán riêng theo từng vùng, trong đó, nhiều tập tục có giá trị rất lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị của rừng.[18] Vì vậy, có thể nói rằng việc bổ sung chính sách nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; được hợp tác, liên kết bảo vệ và phát triển rừng với chủ rừng, chia sẻ lợi ích từ rừng; được thực hành văn hóa, tín ngưỡng gắn với rừng theo quy định là bước tiến quan trọng để đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với quá trình quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế biến và thương mại lâm sản. Đây cũng là cơ sở quan trọng đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số luôn gắn bó với rừng có cơ hội tiếp cận, thực hiện quyền và trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tốt hơn, bảo đảm phát triển kinh tế lâm nghiệp theo chuỗi giá trị. Đồng thời, góp phần quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống và vươn lên làm giàu một cách chính đáng trên mảnh đất quê hương của mình.[19]
4. Kiến nghị sửa đổi chính sách về lâm nghiệp
Các chính sách nhà nước về lâm nghiệp mặc dù đã được điều chỉnh sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình mới và được ghi nhận tại Điều 4 trong Luật LN năm 2017. Tuy nhiên, để những chính sách này đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả trên thực tế đòi hỏi cần phải kịp thời có những giải pháp cụ thể hóa và triển khai thực hiện. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm góp phần cụ thể hóa và thực thi hiệu quả các chính sách nhà nước về lâm nghiệp:
4.1. Gắn chính sách lâm nghiệp với chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh
Thứ nhất, về chính sách đầu tư và huy động nguồn lực xã hội cho hoạt động lâm nghiệp gắn liền, đồng bộ với chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh. Để chính sách này được thực thi hiệu quả, đòi hỏi Nhà nước cần phải ban hành văn bản quy định hướng dẫn cụ thể các chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng, đó là những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư về chuyển giao công nghệ cao, khuyến lâm và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững; phát triển kết cấu hạ tầng gắn với đầu tư phát triển, kinh doanh rừng sản xuất theo chuỗi giá trị… Đồng thời, phải nhanh chóng rà soát để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn luật; xây dựng, ban hành nghị định của Chính phủ; nghiên cứu bãi bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, tốn thời gian để tăng cường thu hút đầu tư vào hoạt động lâm nghiệp. Mặc khác, phải tuyên truyền thay đổi nhận thức của các chủ thể trong xã hội theo hướng để cho các chủ thể này thấy được việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chứ không thuộc về trách nhiệm của một hay một nhóm chủ thể nào trong xã hội, để từ đó huy động được tối đa các nguồn lực xã hội cần thiết phục vụ cho hoạt động lâm nghiệp gắn liền với chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh một cách hiệu quả.
4.2. Bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
Thứ hai, về bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Để đáp ứng yêu cầu của chính sách này, đòi hỏi Nhà nước cần phải đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho hoạt động quản lý lâm nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa và có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các thành phần kinh tế cùng tham gia vào hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Bên cạnh đó, cần phải có cơ chế thiết thực để khuyến khích được người dân tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, đặc biệt là đời sống người dân liên quan đến rừng phải được quan tâm, chăm lo để tạo động lực cho các chủ thể này tham gia tích cực vào hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Hơn nữa, để bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đỏi hòi Nhà nước cần phải tiếp tục nghiên cứu xây dựng các cơ chế đãi ngộ dành cho các chủ thể này nhằm phát huy năng lực của họ vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đạt chất lượng, hiệu quả.
4.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp
Thứ ba, về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp. Để chính sách này được cụ thể hóa và phát huy hiệu quả trên thực tế đòi hỏi cần phải tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Tiếp tục khắc phục sự chồng chéo, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, khả thi trong các văn bản pháp luật có liên quan và các văn bản hướng dẫn dưới luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có những giải pháp quản lý, giám sát việc sử dụng đất để trồng rừng của các chủ thể được giao đất, cho thuê đất nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng đất, phát triển ngành lâm nghiệp bền vững, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội. Khắc phục và giải quyết dứt điểm tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất rừng trái phép; hoàn thành việc giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng để họ thực hiện các hoạt động lâm nghiệp. Phải gắn mục tiêu bảo vệ, phát triển rừng với hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, bảo đảm đời sống, việc làm, an sinh xã hội cho người dân địa phương, đồng bào dân tộc miền núi, biên giới, nhất là cho người dân làm nghề rừng. Đẩy nhanh tiến độ điều tra, đo đạc, xây dựng hồ sơ quản lý, phân định, đánh mốc ranh giới các loại rừng trên bản đồ và thực địa đến đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn; ranh giới lâm phận quốc gia và ranh giới quản lý rừng của các chủ rừng. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty lâm nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI.[20] Tạo mọi điều kiện cần thiết để phát huy quyền lợi tối đa về mặt lợi ích kinh tế cho các chủ rừng khi tham gia vào hoạt động lâm nghiệp. Đồng thời, tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương để thực hiện quyết liệt, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, xử lý nghiêm minh, công khai, minh bạch các tổ chức, cá nhân vi phạm, thiếu trách nhiệm trong công tác thẩm định, phê duyệt, cấp phép đầu tư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoạt động lâm nghiệp.
4.4. Đổi mới về việc tổ chức, quản lý bảo vệ và phát triển rừng
Thứ tư, về tổ chức, hỗ trợ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng sản xuất; giống cây trồng lâm nghiệp, phục hồi rừng, trồng rừng mới; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới; đào tạo nguồn nhân lực; thực hiện dịch vụ môi trường rừng; trồng rừng gỗ lớn, chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn; kết cấu hạ tầng; quản lý rừng bền vững; chế biến và thương mại lâm sản; hợp tác quốc tế về lâm nghiệp. Để cụ thể hóa và phát huy hiệu quả chính sách này trên thực tế đòi hỏi cần phải huy động và phát triển nguồn lực tài chính cho hoạt động lâm nghiệp; tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ cho lĩnh vực lâm nghiệp, hoàn thiện thể chế hóa các chính sách lâm nghiệp ở trong nước được thiết thực, hiệu quả hơn cùng với việc mở rộng, hoàn thiện một số chính sách hợp tác quốc tế. Hỗ trợ các hiệp hội và các doanh nghiệp chế biến lâm sản về thông tin thị trường, các qui định pháp lý về gỗ hợp pháp của các quốc gia; nâng cao năng lực cho doanh nghiệp về quản lý chuỗi cung ứng, quản trị chất lượng trong khâu cung ứng và truy xuất nguồn gốc gỗ, phân loại doanh nghiệp. Thúc đẩy các hình thức kinh tế hợp tác, liên doanh, liên kết sản xuất theo chuỗi giữa doanh nghiệp và người dân. Đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới các công ty lâm nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đối với rừng sản xuất. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho ngành chế biến gỗ có khả năng thích ứng ngay với nền sản xuất chế biến gỗ công nghệ cao, tiên tiến thông qua việc xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tiên tiến, liên kết với các trường đại học tại các nước có ngành công nghiệp chế biến gỗ phát triển. Phải có kế hoạch kiểm tra, chỉ đạo các địa phương tổ chức thực hiện các chỉ tiêu phát triển rừng, trong đó đặc biệt quan tâm đến các địa phương có diện tích trồng rừng lớn. Phải giám sát chặt chẽ các dự án bảo vệ và phát triển rừng sử dụng vốn ngân sách nhà nước, ưu tiên kinh phí cho hoạt động chăm sóc rừng mới trồng, trồng rừng; đẩy mạnh công tác giải ngân tiền trồng rừng thay thế, không để tồn quỹ. Các địa phương cần phải tổ chức kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc giống cây trồng lâm nghiệp theo quy định; chuẩn bị đủ cây giống bảo đảm chất lượng; lựa chọn loại cây trồng phù hợp, trồng đúng thời vụ và thời tiết thuận lợi để cây trồng có tỷ lệ sống cao. Cùng với đó, bảo đảm nguồn nguyên liệu hợp pháp, có chất lượng thông qua việc tổ chức hướng dẫn các chủ rừng thực hiện trồng rừng thâm canh, sử dụng các loại giống cây trồng có chất lượng tốt, có năng suất cao để trồng rừng gỗ lớn, không khai thác rừng non, quản lý rừng bền vững. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về lợi ích và hiệu quả kinh tế khi sử dụng giống chất lượng tốt, lợi ích và hiệu quả chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với các đơn vị chậm nộp, không nộp tiền dịch vụ môi trường rừng, thu hồi nợ đọng tiền dịch vụ môi trường rừng. Tiếp tục nghiên cứu quy định đối tượng sử dụng dịch vụ môi trường rừng là các cơ sở công nghiệp có sử dụng nước mặt và nước ngầm; tổ chức nghiên cứu thu dịch vụ môi trường rừng đối với carbon nội địa từ nhà máy nhiệt điện, xi măng, thép… Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong khai thác, chế biến và thương mại lâm sản. Đẩy mạnh đàm phán các hiệp định song phương về lâm nghiệp; thúc đẩy triển khai Hiệp định đối tác tự nguyện về thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) giữa Việt Nam và EU. Tập trung duy trì và mở rộng các thị trường truyền thống và phát triển các thị trường mới, tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm đối tác, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, diễn đàn thương mại gỗ quốc tế. Mở rộng phối hợp thực hiện các cam kết đa phương về môi trường liên quan tới biến đổi khí hậu như Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp, Công ước RAMSAR, Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc UNCCD… Tranh thủ tận dụng những cơ hội từ các hiệp định thương mại mang lại cũng như sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tài trợ nước ngoài để phục vụ cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Bên cạnh đó, để chính sách hợp tác quốc tế về lâm nghiệp được thực hiện đồng bộ hiệu quả, cần phải thể chế hóa các quy định cụ thể ở các văn bản dưới luật nhằm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Điều 98, Điều 99 của Luật LN năm 2017.
4.5. Kết hợp lâm, nông và ngư nghiệp
Thứ năm, khuyến khích sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; sản xuất lâm nghiệp hữu cơ; bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng. Để chính sách này phát huy hiệu quả đòi hỏi Nhà nước cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục để các chủ thể thấy rõ được lợi ích to lớn từ việc kết hợp sản xuất nông, lâm ngư nghiệp cũng như sản xuất lâm nghiệp hữu cơ mang lại. Đồng thời, phải ban hành cơ chế ưu đãi, hổ trợ cho những chủ thể thực hiện sản xuất lâm nghiệp hữu cơ, những ưu đãi này có thể là ưu đãi về vốn, thuế, phí, đất đai, thị trường… điều này sẽ tạo động lực để khuyến khích các chủ thể tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất lâm nghiệp hữu cơ, bởi sản xuất lâm nghiệp hữu cơ không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn có giá trị rất lớn về mặt môi trường. Về chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng, để chính sách này được thực thi hiệu quả đòi hỏi cần phải nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn điều chỉnh cụ thể, chi tiết về vấn đề này cho phù hợp với tình hình Việt Nam để tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm khuyến khích các chủ thể tích cực tham gia cung ứng và sử dụng dịch vụ bảo hiểm rừng sản xuất là rừng trồng.
4.6. Đảm bảo cuộc sống cho các đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư phụ thuộc vào rừng
Thứ sáu, về chính sách bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp; được hợp tác, liên kết bảo vệ và phát triển rừng với chủ rừng, chia sẻ lợi ích từ rừng; được thực hành văn hóa, tín ngưỡng gắn với rừng theo quy định của Chính phủ. Để chính sách này được cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả đòi hỏi cần phải tăng cường hơn nữa các hoạt động giáo dục tại địa phương để người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số thấy được tầm quan trọng của hệ thống rừng đối với môi trường và sức khỏe con người. Cần phải tiếp tục cụ thể hóa các quy định của pháp luật cho phù hợp với đặc điểm phong tục, tập quán của từng địa phương để đạt được hiệu quả tốt hơn trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trên cơ sở được phép chia sẻ lợi ích, thực hành văn hóa, tín ngưỡng. Nhà nước cần phải tiếp tục tăng cường các chính sách hỗ trợ hơn nữa cho đồng bào dân tộc thiểu số, người dân ở vùng khó khăn để họ có thể tự bảo đảm cuộc sống, bởi nếu cuộc sống vật chất quá thiếu thốn thì người dân khó có thể tuân thủ đúng theo các yêu cầu về chính sách quản lý, bảo vệ và phát triển lâm nghiệp. Phải tiếp tục cụ thể hóa các chính sách và tạo điều kiện để người dân làm giàu từ rừng một cách hợp pháp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có những chính sách hỗ trợ tài chính và tín dụng cũng như những ưu đãi đặc biệt dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, tạo điều kiện để họ phát triển kinh tế song song với việc bảo vệ rừng.
CHÚ THÍCH
[1] Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, “Báo cáo thuyết minh đề xuất lập dự án Luật LN năm 2017 thay thế Luật BV&PTR”, tr. 2.
[2] Ủy ban khoa học công nghệ và môi trường, Báo cáo thẩm tra sơ bộ Dự án Luật BV&PTR (sửa đổi), tr. 2.
[3] Các đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về lâm nghiệp được thể hiện trong các văn bản như: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh; Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; Nghị quyết số 112/2015/NQ-QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng; kết luận số 97-KL/TW ngày 15/5/2014 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn…
[4] Cục pháp chế và cải cách hành chính tư pháp – Cơ quan thường trực phối hợp hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Công an, Những nội dung cơ bản của Luật LN năm 2017, tr. 2.
[5] Khoản 1 Điều 4 Luật LN năm 2017.
[6] Xem thêm Điều 24, 25 Luật BV&PTR năm 2004.
[7] Xem thêm khoản 1, 2 Điều 16 Luật LN năm 2017.
[8] Điều 7 Luật LN năm 2017.
[9] Khoản 2 Điều 7 Luật LN năm 2017.
[10] Điều 77, Điều 78, Điều 79, Điều 80 Luật LN năm 2017.
[11] Điều 86 Luật LN năm 2017.
[12] Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 Luật LN năm 2017.
[13] Điều 60 Luật LN năm 2017.
[14] Khoản 4 Điều 10 Luật BV&PTR năm 2004.
[15] Khoản 6 Điều 4 Luật LN năm 2017.
[16] Điều 94 Luật LN năm 2017.
[17] Báo cáo của Hội đồng dân tộc số 396/BC-HĐDT14 ngày 31/10/2017 về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư và hộ gia đình vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2006 – 2016.
[18] Minh Quang, “Những điểm mới của Luật LN năm 2017 trong chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số”, Báo điện tử của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang, truy cập ngày 29/03/2019.
[19] Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi, “Những điểm mới cơ bản trong Luật LN năm 2017 góp phần phát triển kinh tế, xã hội miền núi”, http://lienhiephoi.kontum.gov.vn/mnews.aspx?id=98, truy cập ngày 29/03/2019.
[20] VOV, “Thực hiện 6 giải pháp tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng”, Báo điện tử VOV – Đài tiếng nói Việt Nam, truy cập ngày 17/05/2019.
Tác giả: ThS. Trần Linh Huân
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2019 (129)/2019 – 2019, Trang 52-68
Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời