Mục lục
Bàn về quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 1992
TÓM TẮT
Bài viết làm rõ khái niệm về quyền được suy đoán vô tội dưới góc độ là một quyền cơ bản con người – quyền công dân. Trên cơ sở làm rõ khái niệm về quyền được suy đoán vô tội bài viết phân tích quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 1992: qua việc xác định đặc điểm của quyền được suy đoán vô tội, chủ thể của quyền được suy đoán vô tội, làm rõ một số hạn chế của Hiến pháp năm 1992 trong việc quy định quyền được suy đoán vô tội. Từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 1992 và một số điều luật khác có liên quan.
- Bàn về quyền được “Suy đoán vô tội” trong Hiến pháp 2013 và vấn đề sửa đổi một số quy định liên quan trong BLTTHS 2003 – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Lê Thị Thùy Dương
- Bàn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam trên nền tảng của nguyên tắc “Suy đoán vô tội” – TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
- Nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền được im lặng trong Tố tụng hình sự – Một số vấn đề đặt ra – ThS. Trịnh Tuấn Anh & ThS. Nguyễn Thị Thanh Nhã
- Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Quyền im lặng của pháp nhân phạm tội trong tố tụng hình sự – ThS. Võ Minh Kỳ & ThS. Nguyễn Phương Anh
TỪ KHÓA: Suy đoán vô tội, Hiến pháp 1992, Quyền im lặng,
1. Nhận thức chung về quyền được suy đoán vô tội
1.1. Khái niệm quyền được suy đoán vô tội
Thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng La tinh “praesumptino”, được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đúng đắn cho đến khi chưa có lý do bác bỏ vấn đề, hiện tượng đó. Trong luật La mã cổ thuật ngữ “Praesumptio boni viri” được hiểu như là một suy đoán pháp lý: “Người tham gia tố tụng luôn được coi là trung thực cho đến khi bị chứng minh không phải là trung thực”. Suy đoán này lúc đầu chỉ được áp dụng trong các tranh chấp về tài sản để buộc các bên tranh chấp phải đề xuất các chứng cứ chứ không chỉ nêu ra yêu cầu kiện tụng[1].
Trong tố tụng hình sự lần đầu tiên tư tưởng tiến bộ về quyền được suy đoán vô tội được nêu ra trong cuốn sách “Về tội phạm và hình phạt” của Cesare Beccaria in bằng tiếng Ý năm 1764 với nội dung: “Không ai có thể bị gọi là kẻ phạm tội khi còn chưa có bản án kết tội và xã hội không thể tước của bị can sự bảo hộ của mình trước khi quyết định rằng anh ta đã vi phạm những điều kiện mà sự tuân thủ của anh ta được đảm bảo bởi sự bảo hộ đó”[2].
Tư tưởng này chỉ trở thành quyền con người được ghi nhận trong pháp luật khi cách mạng tư sản Pháp bùng nổ đánh dấu chiến thắng trong cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của nhân loại để đạt được các quyền con người. Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 long trọng tuyên bố: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho phép đều bị pháp luật xử lý nghiêm khắc”[3]. Quyền được suy đoán vô tội được ngợi ca là một thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, và đã được nhiều nhà nước quy định trong hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự của quốc gia mình.
Trong khoa học pháp lý trên thế giới và ở Việt Nam đã và đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền được suy đoán vô tội như sau:
Quan điểm cực đoan nhất không thừa nhận quyền được suy đoán vô tội. Những người theo quan điểm này cho rằng nếu không có lỗi của cá nhân cụ thể trong những vụ việc cụ thể thì không thể có hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Ở đây không phải là suy đoán vô tội mà ngược lại là lỗi vô điều kiện của những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi vì, nếu không có lỗi thì họ đã không bị truy cứu trách nhiệm hình sự[4]. Người bị buộc tội là chủ thể bị suy đoán có tội nên luật cần quy định cho bị can nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Quan điểm này đã đồng nhất chủ thể bị buộc tội với người có tội, mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo và yêu cầu bảo vệ quyền con người nên bị phê phán nặng nề.
Quan điểm khác vừa phủ nhận suy đoán vô tội vừa phủ nhận suy đoán có tội. Theo quan điểm này thì bị can, bị cáo không bị suy đoán là có tội cũng không bị suy đoán là vô tội. Bị can, bị cáo là một tình trạng trung gian giữa có tội và vô tội. Việc bị cáo được tòa ra bản án tuyên là vô tội khi không chứng minh được lỗi của họ không phải là biểu hiện của suy đoán vô tội mà là thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Điều này cũng giống như việc không thể buộc bị can phải chứng minh lỗi của mình vì luật quy định rõ ràng như vậy chứ không phải vì quyền được suy đoán vô tội của họ. Những người theo quan điểm này còn cho rằng, quyền được suy đoán vô tội cũng khó có thể được chấp nhận vì đa số bị cáo bị tòa án tuyên là có tội, tỷ lệ bị cáo được tòa án tuyên vô tội chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Quan điểm này bị phê phán là không khoa học vì không thể lập luận chỉ bằng cách viện dẫn luật hoặc viện dẫn thực tiễn đơn thuần. Và không thể tồn tại tình trạng trung gian trong tình trạng của bị can, bị cáo, chỉ có hoặc có tội, hoặc không có tội chứ không có lựa chọn thứ ba[5].
Quan điểm ủng hộ suy đoán vô tội cho rằng cần xuất phát từ đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động tố tụng hình sự không thể kết thúc mà không có kết quả pháp lý cụ thể. Nhiệm vụ của việc giải quyết vụ án hình sự là không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nên tố tụng hình sự phải kết thúc bằng việc xác định rõ ràng người bị buộc tội có tội hay vô tội. Để có thể trả lời như vậy các cơ quan tiến hành tố tụng phải xuất phát từ chỗ hoặc là bị can được suy đoán vô tội cho đến khi lỗi của họ được chứng minh bằng bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc là bị suy đoán có tội cho đến khi chứng minh được sự vô tội của người đó[6]. Pháp luật của các nước trên thế giới đã phát triển theo hướng nhân đạo thừa nhận quyền được suy đoán vô tội, từ bỏ phương án suy đoán có tội.
Mặc dù nội dung của quyền được suy đoán vô tội còn có nhiều quan điểm khác nhau nhưng theo chúng tôi quyền được suy đoán vô tội có những nội dung sau đây:
– Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa án;
– Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình;
– Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ đều phải được giải thích có lợi cho người bị buộc tội.
Quyền này được xem xét dưới góc độ đối xử và chứng minh:
Dưới góc độ đối xử: với việc khẳng định không được coi người bị buộc tội là có tội và đối xử với họ như người có tội, khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc bên buộc tội… quyền này đem đến sự quân bình trong thế và lực giữa bên buộc tội là các cơ quan tiến hành tố tụng hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước và bên kia yếu thế hơn là người bị buộc tội.
Dưới góc độ chứng minh: suy đoán vô tội là một biểu hiện của phương pháp chứng minh bằng phản chứng. Theo đó, thay vì khẳng định và chứng minh trực tiếp một người nào đó có tội, người ta đặt ra một giả thiết ngược lại bằng một giả định vô tội. Khi giả định vô tội này chưa bị bác bỏ hoàn toàn và thuyết phục thì nó vẫn luôn đúng. Chính vì vậy, suy đoán vô tội không những bảo vệ quyền của người bị buộc tội mà nó còn đem đến một phương pháp chứng minh tội phạm hữu hiệu.
Suy đoán vô tội thể hiện quan điểm pháp lý trong đó nhà nước và toàn xã hội coi một người là công dân với các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, cho đến khi người đó bị tòa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Quyền được suy đoán vô tội là quyền của người bị buộc tội trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Quyền này được đảm bảo bởi các quy định của pháp luật. Các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong quá trình giải quyết vụ án phải có thái độ nghiêm túc, khách quan và hợp tác. Khía cạnh khách quan và nền tảng của quyền được suy đoán vô tội xuất phát từ sự buộc tội từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết vụ án một cách khách quan, công bằng, không phiến diện, theo hướng có lợi cho người bị buộc tội mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ định kiến nào và chỉ được quyền giải quyết vụ án trên cơ sở đã xem xét các chứng cứ được thu thập theo trình tự, thủ tục hợp pháp. Khi vụ án chưa được xét xử theo đúng trình tự, thủ tục bằng bản án đã có hiệu lực của tòa án thì chưa thể kết luận có tội phạm xảy ra hay không và ai là người thực hiện hành vi phạm tội. Pháp luật đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm, áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng theo quy định của pháp luật để xác định tội phạm và xử lý người thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, sau khi đã kiểm tra, đánh giá chứng cứ, điều này các chủ thể tiến hành tố tụng phải đưa ra các quyết định phù hợp. Pháp luật cho các chủ thể tiến hành tố tụng có quyền ra các quyết định mang tính buộc tội bị can, bị cáo (quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án), điều này chứng tỏ pháp luật không buộc các chủ thể đó phải coi bị can, bị cáo không có tội trong ý nghĩa của luật tố tụng hình sự. Nhưng điều này cũng không vi phạm quyền được suy đoán vô tội vì trước khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật những người tiến hành tố tụng không có quyền đối xử với bị can, bị cáo như người có tội[7].
Từ những phân tích ở trên có thể xây dựng khái niệm quyền được suy đoán vô tội như sau: Quyền được suy đoán vô tội là quyền con người của người bị buộc tội, đảm bảo cho người bị buộc tội không bị coi là có tội khi sự phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
1.2. Đặc điểm của quyền được suy đoán vô tội
Qua việc nghiên cứu về quyền được suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của quyền được suy đoán vô tội như sau:
Thứ nhất, quyền được suy đoán vô tội là một quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Quyền được suy đoán vô tội thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự là một lĩnh vực nhạy cảm rất được Nhà nước và xã hội quan tâm. Việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được xem xét ở hai khía cạnh: quyền của con người sống trong xã hội cần được bảo vệ trước hành vi phạm tội và quyền con người của những người bị buộc tội thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền của người khác, gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Quyền con người của người bị buộc tội trong lĩnh vực tư pháp tư pháp hình sự bao gồm nhiều quyền khác nhau như: quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền công dân, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác; quyền được bào chữa, quyền được kháng cáo bản án, quyết định của tòa án, quyền im lặng… trong đó có quyền được suy đoán vô tội. Quyền của những người bị buộc tội rất dễ bị xâm phạm từ phía các cơ quan có thẩm quyền. Bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là một vấn đề nhạy cảm và cần phải được đặc biệt xem trọng. Việc Việt Nam ghi nhận hạt nhân của quyền được suy đoán vô tội vào trong hiến pháp là một đảm bảo pháp lý cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đây là một phương tiện pháp lý quan trọng để người bị buộc tội tự bảo vệ mình chống lại sự buộc tội.
Thứ hai, quyền được suy đoán vô tội có mối liên hệ mật thiết với các quyền cơ bản khác của con người
Quyền được suy đoán vô tội có mối liên hệ mật thiết với các quyền cơ bản khác của con người, đặc biệt là các quyền bào chữa, quyền được im lặng, quyền được xét xử công bằng…
Quyền được suy đoán vô tội có mối quan hệ mật thiết với quyền bào chữa. Đây đều là những quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Vi phạm quyền được suy đoán vô tội thì cũng đồng thời vi phạm quyền bào chữa. Tôn trọng và thực hiện tốt quyền được suy đoán vô tội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền bào chữa, góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn của nhân dân về vị trí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được coi là chưa có tội, họ có quyền chứng minh chứ không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, đây chính là một trong những cơ sở để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.
Trong mối quan hệ với quyền được giữ im lặng, pháp luật Việt Nam hiện nay không quy định trực tiếp quyền được im lặng của những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy đây không phải là nghĩa vụ của người bị buộc tội nhưng việc không quy định trực tiếp quyền được im lặng của người bị buộc tội dẫn đến việc cơ quan tiến hành tố tụng có hành vi bức cung, nhục hình để ép người bị buộc tội phải nhận tội, đẩy trách nhiệm chứng minh sang phía người bị buộc tội. Quy định quyền được im lặng nhằm ngăn cấm bất kỳ hình thức cưỡng bức nhận tội nào dù về thể xác hay tinh thần, dù là trước hay sau khi xét xử, để ép buộc người bị tình nghi, bị can, bị cáo phải chứng minh chống lại chính mình hay phải thú nhận. Ngoài ra, sự im lặng của người bị buộc tội cũng không thể được sử dụng làm chứng cứ để chứng minh sự có tội và không thể rút ra được những hậu quả bất lợi từ việc áp dụng quyền giữ im lặng của người bị buộc tội. Chính vì vậy, quyền được suy đoán vô tội là cơ sở cho việc ghi nhận trực tiếp quyền được im lặng của người bị buộc tội và quyền không phải đưa ra chứng cứ chống lại chính mình của họ.
Bên cạnh đó, quyền được suy đoán vô tội cũng có mối quan hệ mật thiết với quyền được xét xử công bằng. Người bị buộc tội không thể được đảm bảo về quyền được xét xử công bằng nếu quyết định của những người tiến hành tố tụng có sẵn những định kiến, phiến diện hay thiên vị, không tôn trọng quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Cụ thể, nếu người bị buộc tội bị tòa án định kiến trước rằng họ có tội, hoặc bản án, quyết định của tòa án chỉ đơn thuần dựa trên sự nhận tội của người bị buộc tội thì tại phiên tòa xét xử, tòa án sẽ không khách quan trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá ý kiến tranh luận của bên buộc tội và bên bào chữa. Đây chính là sự vi phạm quyền được suy đoán vô tội và quyền được xét xử công bằng.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng tôn trọng và thực hiện đúng quyền được suy đoán vô tội thì đồng nghĩa với việc tôn trọng và bảo đảm các quyền cơ bản khác của công dân. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được coi là không có tội cho đến khi hành vi phạm tội của họ đã bị kết án bằng bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, khi chưa có bản án kết tội của tòa án thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn có đầy đủ các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật, ngoại trừ trường hợp họ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng thì một số quyền nhất định có thể bị giới hạn. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn có địa vị pháp lý của công dân nên các quyền cơ bản của họ vẫn được tôn trọng và bảo vệ. Nếu cơ quan, người có thẩm quyền không đảm bảo quyền được suy đoán vô tội mà đối xử với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như đối với người đã có tội thì các quyền cơ bản khác của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng sẽ không được đảm bảo. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan có thẩm quyền được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết vụ án hình sự. Các biện pháp này sẽ tạm thời hạn chế một số quyền công dân cơ bản của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chúng chỉ được áp dụng trong những trường hợp cần thiết và phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật về căn cứ, đối tượng, thẩm quyền và thủ tục áp dụng.
Thứ ba, quyền được suy đoán vô tội mang tính văn minh
Cũng giống như các quyền tiến bộ khác của con người, quyền được suy đoán vô tội chỉ được ghi nhận và đảm bảo thực hiện bởi nhà nước ở những giai đoạn nhất định với những kiểu nhà nước mang bản chất dân chủ, văn minh, vì lợi ích của con người. Trong một nhà nước mà quyền con người bị chà đạp, khi tôn giáo và thần quyền còn thống trị thì những quyền mang tính dân chủ, văn minh, tiến bộ không có cơ hội được thể hiện chứ chưa nói đến việc được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Chỉ đến khi xã hội phát triển đến trình độ cao, khi quyền con người được nhà nước tôn trọng và bảo vệ thì các quyền con người mang tính tiến bộ, văn minh như quyền được suy đoán vô tội mới được ghi nhận và được thực hiện trên thực tế. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền được suy đoán vô tội đã chứng minh điều này. Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến không tồn tại quyền được suy đoán vô tội. Người bị buộc tội luôn bị coi là có lỗi, nên các biện pháp tra tấn, bức cung, nhục hình là một công cụ hợp pháp để điều tra vụ án. Đến nhà nước tư sản thì các tư tưởng tiến bộ về quyền con người, quyền công dân được đề xuất. Quyền được suy đoán vô tội khi ban đầu được hình thành chỉ là một tư tưởng tiến bộ được đề xuất bởi ông Beccaria người Ý trong tác phẩm Về hình phạt và tội phạm và được chính thức ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp. Ngày nay, quyền con người mang tính tiến bộ, văn minh này đã được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật của các quốc gia với tư cách là một quyền cơ bản của con người. Điều này thể hiện bước tiến quan trọng trong nhận thức của loài người theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Thứ tư, quyền được suy đoán vô tội là một quyền mang tính dân chủ và nhân đạo sâu sắc
Quyền được suy đoán vô tội đảm bảo mọi người mà trước hết là các cơ quan tiến hành tố tụng phải đối xử với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như là những người chưa có tội. Khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì một người vẫn được coi là vô tội. Điều này không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và cũng không cản trở việc giải quyết vụ án hình sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án nếu các cơ quan có thẩm quyền không thu thập được đầy đủ chứng cứ để loại trừ được các nghi ngờ về việc thực hiện tội phạm của người đang bị buộc tội thì phải giải thích theo hướng có lợi cho họ. Đây chính là biểu hiện của tư tưởng nhân đạo của pháp luật đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc Hiến pháp 1992 ghi nhận những hạt nhân tích cực của quyền được suy đoán vô tội thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, mà việc tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước pháp quyền. Đồng thời, qua đó thể hiện sự đối xử nhân đạo của Nhà nước dành cho những người bị buộc tội, thể hiện thái độ trân trọng số phận chính trị, pháp lý của người bị buộc tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa án, nhằm tránh những định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dẫn đến những sai lầm, làm oan những người bị buộc tội. Việc hiểu rõ bản chất và tôn trọng quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tránh được những vi phạm có thể xâm phạm quyền con người của người bị buộc tội. Quyền được suy đoán vô tội phản ánh được giá trị và địa vị của con người trong xã hội công dân.
Thứ năm, quyền được suy đoán vô tội là một quyền thể hiện sự công bằng xã hội
Trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, do địa vị pháp lý đặc thù nên người bị buộc tội ở thế yếu hơn, bị hạn chế một số quyền mà pháp luật quy định (như quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do lựa chọn nơi cư trú…), lại phải đối mặt với một bộ máy cơ quan nhà nước hoạt động mang tính chuyên nghiệp nên những người bị buộc tội hoàn toàn không có khả năng bình đẳng đối với bên buộc tội. Những người bị buộc tội rất dễ bị xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp bởi các cơ quan công quyền. Mặt khác, những người bị buộc tội cũng không đủ trình độ, khả năng để chứng minh sự vô tội của mình. Ngay đến những cơ quan tiến hành tố tụng với những điều kiện thuận lợi, được đào tạo bài bản về nghiệp vụ, được sự hậu thuẫn bởi quyền lực nhà nước nhưng trong nhiều trường hợp cũng không thể chứng minh được. Sẽ là không công bằng nếu nhà nước đẩy trách nhiệm chứng minh tội phạm cho những người bị buộc tội. Do đó, một trong những nội dung quan trọng của quyền được suy đoán vô tội được pháp luật Việt Nam ghi nhận là trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội[8]. Để thực hiện quyền chứng minh thì người bị buộc tội được sử dụng nhiều quyền khác nhau như quyền bào chữa, quyền đưa ra tài liệu chứng cứ yêu cầu, quyền tranh luận bình đẳng tại phiên tòa, thậm chí là cả quyền được im lặng. Như vậy, quy định quyền chứng minh thuộc về người bị buộc tội chính là một đảm bảo cần thiết để thiết lập vị thế của người bị buộc tội trong mối quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền. Quyền được suy đoán vô tội tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích chung của nhà nước, xã hội và quyền tự do cá nhân của con người. Cụ thể hơn, sự cân bằng sẽ được thiết lập giữa quyền của người bị buộc tội không bị xét xử oan, sai và lợi ích của nhà nước trong việc thực thi pháp luật. Việc kết án oan, sai sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, quyền được suy đoán vô tội cũng góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân của người bị buộc tội.
1.3. Chủ thể của quyền được suy đoán vô tội và chủ thể có nghĩa vụ đảm bảo quyền được suy đoán vô tội
1.3.1. Chủ thể của quyền được suy đoán vô tội
Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về chủ thể của quyền được suy đoán vô tội.
Quan điểm thứ nhất cho rằng chủ thể có quyền được suy đoán vô tội không bị giới hạn bởi sự buộc tội, quan điểm này thể hiện rõ tại quy định tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 72 Hiến pháp sử dụng cụm từ “Không ai…” tức là bất kỳ người nào cũng được suy đoán vô tội. Quy định này có điểm tương đồng với Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1789 vì Tuyên ngôn khẳng định quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho tất cả mọi người (Điều 9 Tuyên ngôn sử dụng thuật ngữ “tout homme”, tiếng Pháp có nghĩa là “tất cả mọi người”). Ủy ban quyền con người của Liên hợp quốc cũng quan niệm quyền được suy đoán vô tội là quyền của tất cả mọi người và nghĩa vụ tôn trọng quyền này không chỉ thuộc về cơ quan tư pháp mà còn là nghĩa vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp[9] và cả các cơ quan thông tin đại chúng[10].
Quan điểm thứ hai cho rằng chủ thể của quyền được suy đoán vô tội là những người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể, Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con người năm 1950 và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã quy định quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho người bị buộc tội (các điều luật nêu trên đều sử dụng thuật ngữ “personne acusée” trong bản tiếng Pháp, có nghĩa là “người bị buộc tội”). Việc quy định như vậy đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất như thế nào là buộc tội. Do đó, Tòa án nhân quyền châu Âu đã đưa ra định nghĩa chung về buộc tội, không phụ thuộc vào quan niệm hay quy định của các quốc gia thành viên Cộng đồng châu Âu. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được suy đoán vô tội không bị giới hạn trong định nghĩa chung này mà được mở rộng cho cả người chưa bị buộc tội. Ủy ban châu Âu khẳng định quyền được suy đoán vô tội dành cho tất cả mọi người, không bị giới hạn trong những đảm bảo tố tụng; quyền được suy đoán vô tội được áp dụng mỗi khi đương sự là đối tượng của một tuyên bố công khai chứa đựng ý kiến rằng họ là người có tội[11].
Theo quan điểm này, không phải ai cũng cần đến sự suy đoán vô tội mà chỉ những người bị buộc tội mới cần được suy đoán vô tội, còn những người không bị buộc tội, luôn chấp hành pháp luật, không thực hiện hành vi phạm tội thì không cần đến bất kỳ sự suy đoán vô tội nào. Hiện nay, có những quan điểm khác nhau về người bị buộc tội:
– Quan điểm thứ nhất cho rằng: chủ thể bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không thể là đối tượng bị buộc tội[12].
– Quan điểm thứ hai cho rằng: sự buộc tội xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ[13]. Tức là, chủ thể của quyền được suy đoán vô tội bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
– Quan điểm thứ ba cho rằng: nên thừa nhận cả những người bị khám xét, bị bắt (nhất là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang) cũng có quyền được suy đoán vô tội[14]. Bởi vì, họ đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mang tính nghiêm khắc, bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì những người này không thể có quyền được suy đoán vô tội. Bởi vì, người bị khám xét, bị bắt chưa phải là những người bị buộc tội mà những người chưa bị buộc tội thì không cần được suy đoán vô tội, họ đương nhiên là những người không có tội.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, theo đó người bị tạm giữ là người bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, bị truy nã, tự thú và đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Người bị tạm giữ là người mà tại thời điểm bị tạm giữ chưa nhận được bất kỳ lời buộc tội chính thức nào từ phía các cơ quan có thẩm quyền nhưng các trường hợp tạm giữ và các căn cứ tạm giữ chính là những lời buộc tội gián tiếp đối với họ. Trong quyết định tạm giữ có ghi rõ lý do tạm giữ và người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ. Khi hết thời hạn tạm giữ thì người bị tạm giữ có thể bị khởi tố bị can hoặc được trả lại sự tự do. Như vậy, người bị tạm giữ cũng là chủ thể của quyền được suy đoán vô tội. Bị can cũng là chủ thể của quyền được suy đoán vô tội vì đã có quyết định khởi tố bị can. Bị cáo là người đã có quyết định của Tòa án đưa ra xét xử. Bị cáo cũng là chủ thể của quyền được suy đoán vô tội vì ở thời điểm này chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa án đối với họ.
Như vậy, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người bị buộc tội, nhưng khái niệm người bị buộc tội không đồng nhất với khái niệm người có tội. Người có tội là người có đủ độ tuổi chịu trách nhiệm, có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự; người này đã bị điều tra, truy tố, xét xử theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định và đối với họ đã có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị buộc tội đã bị khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thậm chí đã có bản án kết tội của tòa án nhưng bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật thì vẫn chưa được coi là có tội.
1.3.2. Chủ thể có nghĩa vụ đảm bảo quyền được suy đoán vô tội
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được nhà nước trao cho các quyền hạn, trách nhiệm nhất định để giải quyết vụ án. Vì vậy, với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chính là chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền được suy đoán vô tội.
Pháp luật không coi người bị buộc tội là những người đã có tội vì vậy trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được đối xử với họ như người đã có tội và không được áp dụng bất kỳ hình phạt nào đối với những người này. Nhưng điều này không có nghĩa là những người tiến hành tố tụng không có quyền tính đến niềm tin nội tâm của mình về sự đúng đắn trong lời buộc tội của họ. Khi ra quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can hay quyết định đưa vụ án ra xét xử thì rõ ràng trong niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng họ không thể nghĩ rằng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người không có tội. Tuy vậy, suy nghĩ và hành vi tố tụng là hai việc hoàn toàn khác nhau. Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi của mỗi người, quy định những gì họ được làm và những gì không được làm chứ không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Khi những người tiến hành tố tụng đưa ra các quyết định để giải quyết vụ án thì phải dựa cơ sở những chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra và họ không được cho rằng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có tội.
Quyền được suy đoán vô tội là một quyền cơ bản của con người được quy định trong hiến pháp, nó không chỉ đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân trong xã hội phải đối xử với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như người chưa có tội cho đến khi họ có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Các cơ quan truyền thông, tác giả các bài báo khi đưa tin về người đang bị buộc tội không được gọi những người này là “hắn”, “y”, “thị”, “kẻ phạm tội”, “tên lưu manh”, “kẻ giết người”, “tên cướp của”… Đây chính là sự đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội, khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tòa án thì họ vẫn được coi là vô tội và các quyền nhân thân của họ vẫn phải được tôn trọng và bảo vệ.
2. Quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 1992
Nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam có thể thấy rằng, các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 chưa chính thức ghi nhận quyền được suy đoán vô tội. Phải đến Hiến pháp năm 1992 những nội dung tiến bộ của quyền được suy đoán vô tội mới được ghi nhận. Thế nhưng điều đó không có nghĩa rằng tư tưởng tiến bộ, dân chủ và vị nhân quyền của quyền được suy đoán vô tội không được thể hiện và áp dụng trong pháp luật Việt Nam.
Sau một thời gian dài bị thực dân Pháp đô hộ, bị áp bức, bộc lột, khi đã giành độc độc lập và quyền dân tộc tự quyết thì Nhà nước Việt Nam đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ độc lập tự do của tổ quốc, bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 và các văn bản pháp luật được ban hành trong thời kỳ này đã được xây dựng trên tinh thần của quyền được suy đoán vô tội, mặc dù các quy định này chưa phải ở mức độ cụ thể và toàn diện. Cụ thể: Hiến pháp năm 1946 ra đời với sự ghi nhận hàng loạt các quyền cơ bản của công dân, trong đó có một quyền đáng chú ý đó là: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm công dân Việt Nam” (Điều 11). Cũng như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 tiếp tục ghi nhận: “…không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân” (Điều 27). Đến Hiến pháp 1980 thì quyền được suy đoán vô tội càng được quán triệt hơn khi quy định: “…Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt người phải theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình” (Điều 69). Mặc dù quyền được suy đoán vô tội chưa được thể hiện rõ ràng trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 nhưng đâu đó cơ sở nền tảng của quyền được suy đoán vô tội cũng đã được ghi nhận một cách chính thức trong hiến pháp.
Cùng sự phát triển tiếp theo của tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng dân chủ, tiến bộ và nhân đạo vì quyền con người, Hiến pháp năm 1992 đã đưa nguyên tắc suy đoán vô tội của luật tố tụng hình sự thành một trong những quyền cơ bản của công dân. Trong chương V – Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã ghi nhận: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị tạm giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bội thường thiệt hại về mặt vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải chịu xử lý nghiêm minh”.
Như vậy, Hiến pháp năm 1992 đã chính thức ghi nhận hạt nhân quan trọng của quyền được suy đoán vô tội thành một trong những quyền cơ bản của công dân tại Điều 72. Có thể khẳng định rằng quyền được suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế đã được pháp luật Việt Nam tiếp thu và ghi nhận một cách đầy đủ và ở mức độ cao nhất so với các giai đoạn trước đây.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, tư tưởng về quyền được suy đoán vô tội đã trở thành nguyên tắc nền tảng của luật tố tụng hình sự, là nguyên tắc mang tính định hướng cho toàn bộ quá trình tố tụng qua quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” tại Điều 9 và “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Qua đó có thể đánh giá một cách khái quát rằng, trong giai đoạn hiện nay, quyền được suy đoán vô tội đã được ghi nhận ở mức độ đầy đủ nhất và cao nhất của hiệu lực pháp luật so với các giai đoạn trước đây, thể hiện được đường lối, chủ trương chính sách của nhà nước về vấn đề tăng cường bảo đảm quyền con người. Các chính sách, các quy định pháp luật của nước ta đã có sự phù hợp nhất định với các chuẩn mực pháp lý đã được quốc tế thừa nhận như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 quy định về quyền được suy đoán vô tội vẫn còn những hạn chế nhất định. Cụ thể:
Thứ nhất, quyền được suy đoán vô tội là một quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nó được xếp trong nhóm các quyền dân sự trong công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966. Xét về vị trí, vai trò thì các quyền dân sự, chính trị gắn với cuộc sống của mỗi con người, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của mỗi người và nó là cơ sở để đảm bảo các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Quyền được suy đoán vô tội là quyền dân sự mang tính dân chủ, tiến bộ, nó là “tấm lá chắn hữu hiệu” để bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nói riêng. Tuy nhiên, trong quy định của chương V – Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, điều luật này lại sắp xếp ở vị trí 24 trong tống số 34 điều luật; xếp sau các quy định về quyền kinh tế, văn hoá, xã hội… Theo chúng tôi, quy định như vậy là chưa hợp lý.
Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 xét về bản chất chỉ mới dừng lại ở việc ghi nhận những tư tưởng, những hạt nhân về quyền được suy đoán vô tội mà chưa quy định một cách chính thức quyền được suy đoán vô tội; Nội dung được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 vẫn chưa đầy đủ so với tinh thần tiến bộ của quyền này trong pháp luật quốc tế. Đây có thể xem là một điểm hạn chế của Hiến pháp năm 1992, bởi vì quyền được suy đoán vô tội đã được nhân loại đánh giá là một thành tựu vĩ đại trong việc bảo vệ quyền con người và chứng minh tội phạm. Nó được xem như là một công cụ hữu hiệu chống lại sự chuyên quyền, độc đoán, chà đạp lên quyền con người trong tố tụng hình sự và quyền này đã được đại đa số các nước trên thế giới thừa nhận và pháp luật Việt Nam cũng cần cụ thể hoá đầy đủ nội dung quyền này trong Hiến pháp – văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất.
Thứ ba, theo quy định tại đoạn 2 Điều 72 Hiến pháp năm 1992: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Đây là quyền được bồi thường do bị oan trong tố tụng hình sự. Quyền này được quy định trong Điều 72 cùng với quyền được suy đoán vô tội theo chúng tôi là chưa hợp lý.
Như vậy, quyền được suy đoán vô tội mặc dù đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 nhưng quy định này vẫn còn những hạn chế như đã phân tích ở trên. Vì vậy, phải tiếp tục hoàn thiện quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền được suy đoán vô tội nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội.
3. Kết luận chung
Một trong những phương cách hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền được suy đoán vô tội nói riêng chính là hoàn thiện hiến pháp về quyền được suy đoán vô tội. Hiến pháp cần phải chính thức ghi nhận quyền được suy đoán vô tội để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đảm bảo, thực thi quyền này có hiệu quả. Trên cơ sở ghi nhận của Hiến pháp thì luật tố tụng hình sự cũng phải hoàn thiện các quy định của mình nhằm đảm bảo tốt nhất quyền được suy đoán vô tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận chung về quyền được suy đoán vô tội, cũng như phân tích, đánh giá thực trạng quy định về quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 1992, chúng tôi nhận thấy cần phải hoàn thiện quyền được suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 1992 theo hướng sau:
Thứ nhất, quyền được suy đoán vô tội được xếp trong nhóm các quyền dân sự trong công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966. Xét về vị trí, vai trò thì các quyền dân sự, chính trị gắn với cuộc sống của mỗi con người, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của mỗi người và nó là cơ sở để đảm bảo các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Quyền được suy đoán vô tội là quyền dân sự mang tính dân chủ, tiến bộ, nó là “tấm lá chắn hữu hiệu” để bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nói riêng. Tuy nhiên, trong Hiến pháp năm 1992 thì vị trí của quyền được suy đoán vô tội được quy định tại Điều 72 và nó được xếp sau các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Quy định như vậy theo chúng tôi là chưa hợp lý. Vì vậy, trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung vị trí của quyền được suy đoán vô tội cần phải được xếp theo thứ tự hợp lý phản ánh đúng vị trí, vai trò của các quyền này theo thứ tự lần lượt như sau: đầu tiên là các quyền chính trị, tiếp đến là các quyền dân sự (trong đó có quyền được suy đoán vô tội) rồi mới đến các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa và cuối cùng là các nghĩa vụ của công dân. Chúng tôi đồng tình với vị trí sắp xếp quyền được suy đoán vô tội như trong Dự thảo hiến pháp sửa đổi năm 2013.
Thứ hai, xây dựng nội dung của “quyền được suy đoán vô tội” trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung với những nội dung sau:
“Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền chứng minh mình vô tội;
Mọi nghi ngờ phải được giải thích có lợi cho người bị buộc tội”.
Thứ ba, tách quy định về quyền được bồi thường do bị oan trong tố tụng hình sự ra khỏi Điều 72 Hiến pháp năm 1992.
Mặt khác, cần hoàn thiện các quy định trong các luật chuyên ngành về quyền được suy đoán vô tội như:
– Hoàn thiện quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
– Hủy bỏ các quy định của luật chuyên ngành vi phạm quy định của hiến pháp về quyền được suy đoán vô tội như: Điều 23 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: Người nào đang bị tạm giam không được ghi tên vào danh sách cử tri; Điều 24 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: Người đang bị khởi tố về hình sự không có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, thậm chí đã có tên trong danh sách nhưng đến thời điểm bắt đầu bầu cử mà bị khởi tố hình sự, bị bắt giữ trong trường hợp phạm tội quả tang thì phải xóa tên.
Việc ghi nhận hoàn thiện quyền được suy đoán vô tội trong hiến pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền này trong thực tiễn là một yêu cầu cấp bách, đáp ứng kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo quyền được suy đoán vô tội thì cần phải hiểu một cách sâu sắc để vận dụng đúng đắn, đầy đủ, toàn diện các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người.
CHÚ THÍCH
[1]Xem: Nguyễn Thái Phúc, Nguyên tắc suy đoán vô tội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 11/2006, tr. 72-83.
[2] Xem: Hoàng Thị Sơn (Chủ biên), Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS Việt Nam, Nxb CAND 1999, tr. 66 – 75.
[3] Viện thông tin khoa học xã hội, “Quyền con người – các văn kiện quan trọng”, Hà Nội, 1998, tr. 148, 238.
[4] Xem: Nguyễn Thái Phúc, Tài liệu đã dẫn.
[5] Xem: Nguyễn Thái Phúc, Tài liệu đã dẫn.
[6] Xem: Nguyễn Thái Phúc, Tài liệu đã dẫn .
[7] Xem: Hoàng Thị Sơn, Tài liệu đã dẫn.
[8] Xem Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
[9] Droit processuel droit commun et droit comparé du procès, Dalloz, 2003, p. 415, 422, 421.
[10] Xem chú dẫn số 10, p. 415, 422, 421.
[11] Louis Edmond PETTITI, Emmanuel DECAUX, Pierre Henri IMBER, La Convention européenne des droits de l’homme commentaire article par article, Economica, 1999, p. 270.
[12] Xem: Hoàng Thị Sơn, “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, Luận án tiến sĩ luật học, H. 2003, tr. 13.
[13] Phạm Hồng Hải, “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”, Nxb. Công an nhân dân, H. 1999, tr. 27.
[14] Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội, Nxb chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội – 2011, tr. 195.
Tác giả: TS. Võ Thị Kim Oanh – Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh & ThS. Đinh Văn Đoàn – Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02/2013 (75)/2013 – 2013, Trang 11-21
Fanpage Luật sư Online: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời