Mục lục
Phạm vi trưng cầu ý dân
- Trưng cầu ý dân và dự liệu các tác động không mong muốn – TS. Phan Nhật Thanh
- Nhận định khả năng áp dụng pháp luật trưng cầu ý dân tại Việt Nam – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Về thông tin, tuyên truyền trong dự thảo luật trưng cầu ý dân ở Việt Nam – TS. Thái Thị Tuyết Dung
- Trưng cầu ý dân tại Việt Nam và bình luận, góp ý dự thảo Luật Trưng cầu ý dân 2015 – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Phạm vi và giới hạn của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân – ThS. Đỗ Thanh Trung
- Trưng cầu ý dân ở Thái Lan: Nguyên lý tốt nhưng khó thực hiện – Narin Jareonsubphayanont
- Trưng cầu ý dân Thụy Điển – tham gia trực tiếp trong nền dân chủ đại diện – Bengt Lundell
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Trưng cầu ý dân của một số quốc gia trên thế giới – TS. Phan Nhật Thanh – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Mối quan hệ giữa Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Bàn về đối tượng trưng cầu ý dân – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp
TÓM TẮT
Việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân có nội dung hợp lý, bảo đảm khả thi là một nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử to lớn ở nước ta hiện nay. Trong đó “trưng cầu ý dân ở phạm vi nào” là một trong những nội dung quan trọng nhất để quyền được trưng cầu ý kiến của người dân được hiện thực hóa, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả trên thực tế. Bài viết góp ý về nội dung quan trọng nêu trên, được quy định tại Điều 7 Dự thảo Luật.
TỪ KHÓA: Trưng cầu ý dân, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.[1] Chúng ta đã thực hiện dân chủ đại diện rất tốt bao năm qua và đến nay cần có sự đổi mới bằng cách bổ sung hình thức dân chủ trực tiếp thực chất nhất mà nhiều nước trên thế giới áp dụng là “trưng cầu ý dân”. Lợi thế lớn nhất và ưu việt nhất của dân chủ trực tiếp “trưng cầu ý dân” là “thể hiện được ý chí của người dân”, đó là điều mà dân chủ đại diện dù có hiệu quả mấy cũng không có được. Việc tổ chức trưng cầu ý dân không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế hay ngoại giao mà hoàn toàn đó là vấn đề “nội bộ” của quốc gia, nói cách khác đó là sự thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Một nhà nước dân chủ đến đâu không do việc trưng cầu ý dân quyết định nhưng muốn chứng minh là một nhà nước dân chủ không thể bỏ qua hoạt động có ý nghĩa thiết thực và rõ nét nhất là trưng cầu ý dân. Với Việt Nam, điều này cũng là nhằm “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.[2]
Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân được soạn thảo lần đầu tiên năm 2006 và đã được nhiều lần chỉnh sửa, tuy nhiên vẫn cần một sự bàn bạc kỹ lưỡng, thấu đáo vì tính chất đặc biệt quan trọng của Dự thảo luật này. Người chịu trách nhiệm với một văn bản luật không chỉ là Quốc hội mà còn là nhân dân vì suy cho cùng thì quyền biểu quyết thông qua luật là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình xử sự cho xã hội và quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền làm ra luật.[3] Với Dự thảo hiện tại, chúng tôi nhận thấy còn nhiều quy định chưa hợp lý, trong đó nội dung quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của Luật Trưng cầu ý dân là “phạm vi trưng cầu ý dân” (Điều 7 Dự thảo Luật) vẫn cần được xem xét thấu đáo hơn.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phạm vi trưng cầu ý dân
Phạm vi trưng cầu ý dân là một giới hạn lãnh thổ nhất định, có thể là lãnh thổ cả nước cũng có thể chỉ tổ chức trên phạm vi địa phương, một giải pháp mang tính quốc gia chỉ để giải quyết vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên, khi một hoặc một ít địa phương có khả năng làm thay đổi một giải pháp mang tính quốc gia thì vấn đề quốc gia phải được giải quyết trước hết ở cấp địa phương, chứng tỏ có sự không đồng đều giữa các địa phương trong việc cùng giải quyết vấn đề của quốc gia.[4] Như vậy, trưng cầu ý dân ở cấp địa phương là việc cần thiết không kém so với cấp quốc gia và đôi khi nó còn phổ biến và cấp bách hơn vấn đề của quốc gia.
Dự thảo quy định chỉ tổ chức trưng cầu ý dân trên phạm vi cả nước, không được tổ chức ở cấp địa phương.[5] Thiết nghĩ cần xem xét lại, vì những lý do như sau:
Một là, địa phương không tách rời lãnh thổ cả nước, mỗi địa phương trước hết phải dân chủ thì cả nước mới dân chủ. Các đơn vị hành chính – lãnh thổ là một bộ phận lãnh thổ quốc gia được xác lập nhằm thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ chung của công cuộc xây dựng nhà nước. Chính điều này làm cho đơn vị hành chính – lãnh thổ khác với các đơn vị lãnh thổ được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ chuyên biệt của quản lý nhà nước như các khu quân sự, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, ngoài chức năng kính tế – xã hội thì mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ còn thực hiện chức năng hành chính – chính trị.[6] Trong mối quan hệ nhà nước, các đơn vị hành chính – lãnh thổ là những chủ thể quản lý xã hội, chủ thể các quan hệ pháp luật – nhà nước, là những tế bào chính trị – xã hội của quốc gia. Do đó không thể cho rằng việc bảo đảm dân chủ trên phạm vi cả nước là cần thiết hơn ở cấp địa phương.
Hai là, dân chủ ở địa phương mới là dân chủ trực tiếp nhất và rõ ràng nhất. Ai cũng phải thừa nhận rằng, so với phạm vi quốc gia thì địa phương là nơi gần gũi với người dân, chính sách của địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân, do đó xét về tính chất quan trọng thì sự đồng thuận và nhất trí của dân cư địa phương với công việc ở địa phương cũng cần thiết không kém ở tầm quốc gia. Việc dân cư địa phương được thể hiện ý chí của mình với quyết sách của địa phương là hoàn toàn hợp với nghĩa đen của hoạt động “trưng cầu ý dân”. Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta thời gian qua cũng đã và đang tích cực hướng về cơ sở, phát huy dân chủ địa phương,[7] do đó sẽ là điều nghịch lý khi trưng cầu ý dân lại không được tổ chức trong phạm vi địa phương.
Ba là, trưng cầu ý dân ở địa phương bảo đảm tính hài hòa chính sách chung của trung ương và chính sách cá biệt, đặc thù ở địa phương. Thực tế hơn hai thập niên vừa qua cho thấy có nhiều vụ “xé rào” ở các địa phương, ảnh hưởng đến lòng dân và xâm hại đến sự bảo toàn các chính sách chung của nhà nước. Ngọn nguồn của vấn đề là do tính “cào bằng” trong các chính sách quản lý của trung ương, khiến cho với địa phương này thì phù hợp, với địa phương khác thì va vấp.[8]
Nhận thấy, cần phân cấp mạnh và phát huy dân chủ địa phương, từ Nghị quyết của Đảng đến pháp luật của Nhà nước thời gian qua đều hướng đến mục tiêu xây dựng một chính quyền địa phương dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Gần đây nhất, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng định hướng đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo hướng “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định về tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ chức thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo” .[9] Đáp ứng nhu cầu của địa phương, trung ương cũng ban hành và sửa đổi nhiều luật chuyên ngành theo hướng phân cấp mạnh cho địa phương như: Luật Đất đai năm 2013, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Bên cạnh đó là các kế hoạch về xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Đề án tin học hóa quản lý hành chính,[10] áp dụng cơ chế một cửa ở các địa phương,[11] tiến hành rà soát, đơn giản hóa và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính nhằm phát triển một nền hành chính phục vụ, phát huy tính chủ động của địa phương, tiến tới xã hội hóa một số lĩnh vực.[12] Trên cơ sở phân cấp cho địa phương, chính quyền trung ương cũng xác định rõ sẽ tập trung vào việc giải quyết những công việc mang tính chất vĩ mô, hoạch định chính sách, xây dựng hành lang pháp lý để địa phương thể hiện sự chủ động của mình, bản thân trung ương đang chuyển từ vai trò “người cầm chèo sang người cầm lái”.[13]
Đặc biệt, bản Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới về tổ chức chính quyền địa phương, thể hiện chính sách phân cấp của nhà nước. Theo đó “chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định; Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên”.[14] Do đó, việc không tổ chức trưng cầu ý dân ở cấp địa phương là chưa phù hợp với chính sách chung về phát triển chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nói cách khác khi việc phủ nhận trưng cầu ý dân ở cấp địa phương phải chăng các chính sách dân chủ của Nhà nước ta đang mâu thuẫn với chính mình.[15]
Bốn là, về hiệu quả trưng cầu ý dân, chúng ta thấy rằng với những vấn đề chỉ phát sinh hoặc chỉ liên quan trực tiếp đến một hoặc một vài địa phương thì cần chỉ tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương. Việc tổ chức trưng cầu trên phạm vi cả nước để giải quyết vấn đề của địa phương nào đó vừa tốn kém vừa không hợp lý, trong khi sự đồng thuận của cư dân địa phương là cần thiết nhất, thậm chí những vấn đề giống nhau của tất cả các địa phương nhưng mỗi địa phương sẽ có ý chí khác nhau và tất nhiên không thể dùng kết quả trưng cầu cả nước để đo lường kết quả của mỗi địa phương. Chẳng hạn, về việc phân chia địa giới hành chính, có địa phương có lãnh thổ liền lạc, không chia cắt, có địa phương bị phân tách bởi sông suối, ao hồ, núi đồi… Do đó, không thể dùng quyết định của dân cư cả nước để áp đặt cho địa phương. Ngoài ra, về việc dân bầu Chủ tịch xã, vì mỗi địa phương có trình độ dân trí khác nhau, sự gắn kết dân cư khác nhau, có văn hóa làng xã khác nhau…, nên tổ chức trưng cầu ý dân trong phạm vi địa phương.
Việc hướng về địa phương không phải là chuyện hiếm trong hoạt động trưng cầu ý dân trên thế giới. Ở rất nhiều nước, việc trưng cầu ý dân rất phổ biến ở cấp địa phương và ít khi xảy ra ở cấp trung ương.[16] Thậm chí, có một số quốc gia còn không quy định trong hiến pháp và các đạo luật về quyền trưng cầu ý dân và cho rằng đó chỉ là việc thuộc về phạm vi địa phương như Nhật Bản, Isarel.[17] Ở Pháp mặc dù người dân không chuộng hình thức trưng cầu ý dân địa phương nhưng chính các cuộc trưng cầu ý dân địa phương lại hay được tổ chức (theo thống kê thì mỗi năm ở Pháp tổ chức bình quân 7 cuộc trưng cầu ý dân địa phương).[18]
Năm là, việc tổ chức trưng cầu ý dân ở cấp địa phương phù hợp cho việc phát triển chính quyền địa phương nước ta theo mô hình phân quyền, tự quản. Muốn xây dựng một chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì không thể bỏ qua hoạt động trưng cầu ý dân ở cấp địa phương. Việc trưng cầu ý dân ở địa phương sẽ bảo đảm rằng kết quả trưng cầu ý dân là thực chất chứ không mang tính hình thức, người dân muốn làm chủ những quyết sách quan trọng ở tầm quốc gia thì trước hết phải cho họ được quyền làm chủ với những quyết sách ở địa phương. Phạm vi trưng cầu ý dân ở địa phương sẽ thể hiện mối quan hệ có tính “chia sẻ” giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, đó là điều cần thiết cho việc thiết kế một mô hình chính quyền địa phương dân chủ, hiện đại, tự chủ, tự chịu trách nhiệm – kiểu chính quyền địa phương tự quản.
Hiện nay, trên thế giới đang rất ưa chuộng mô hình tổ chức chính quyền địa phương tự quản vì những giá trị không thể thay thế của nó. Từ những nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản[19] đến những nước ít phát triển hơn như Hàn Quốc,[20] Philippines,[21] Trung Quốc,[22] Liên bang Nga[23] hay những nước chậm phát triển như Slovania,[24] Jalandha[25] hoặc những quốc gia bất ổn về chính trị như Pakistan, Bangladesh[26] đều áp dụng chế độ tự quản cho chính quyền địa phương của họ. Từ đó cho thấy tự quản địa phương không được áp dụng trên tiêu chí “nghèo” hay “giàu”, là nước phát triển hay đang phát triển đều có thể áp dụng tự quản địa phương, dù là nhà nước bất ổn về chính trị hay những nước được cho là hòa bình cũng đều có thể áp dụng chế độ này. Tự quản địa phương về bản chất là mô hình xa xưa nhất xuất hiện cùng với việc tổ chức quyền lực nhà nước theo lãnh thổ.[27] Thế giới hiện nay áp dụng tự quản địa phương một cách rộng rãi vì vốn dĩ tự quản địa phương là kiểu tổ chức chính quyền địa phương sơ khai và dân chủ nhất theo kiểu “trả lại những gì vốn có cho địa phương”, chỉ khác một điều tự quản địa phương hiện đại là cách tổ chức có ý thức, có mục đích rõ ràng, chứ không mang tính tự phát như thời sơ khai.[28]
Việt Nam hiện nay dù chưa áp dụng mô hình tự quản địa phương nhưng cũng không thể từ bỏ vì tính quốc tế và nhu cầu thực tiễn của chính tình hình trong nước.[29] Hiện nay, ngày càng có nhiều chính phủ xem phân cấp là con đường để phát triển, là một chính sách đáng mơ ước[30]. Hầu như các quốc gia hiện nay đang cố gắng phân cấp một cách tốt nhất cho địa phương nhằm phát huy và tạo những cơ hội nhiều nhất để địa phương tự chủ động, sáng tạo. Chính quyền trung ương sẽ tập trung hơn vào những việc mang tính chiến lược, vĩ mô, hướng đến việc hoạch định các chính sách phát triển tổng thể kinh tế – xã hội của cả nước, nắm giữ và quyết định những việc có tính chất quốc gia. Việc phân cấp giữa trung ương và địa phương là vấn đề mang tính tất yếu, khách quan, là một công cụ, biện pháp để đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước. Phân cấp quản lý cũng là phương thức hiện thực hóa những giá trị của dân chủ trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, phân cấp quản lý không triệt để như khái niệm tổ chức tự quản địa phương dưới góc độ phát triển dân chủ.
Phân cấp hay tản quyền[31] dù có hiệu quả thì thực chất vẫn chỉ là những cải cách trong giới hạn của mô hình chính quyền địa phương tập trung.[32] Về cơ bản đó là sự ủy quyền của trung ương cho địa phương chứ chính quyền trung ương không đương nhiên thừa nhận đó là những quyền hạn cơ bản vốn có của địa phương. Lẽ đương nhiên khi chính quyền trung ương “phân cấp” được thì cũng có thể thu lại được những quyền hạn đã phân cấp, không có gì đảm bảo tính ổn định và bền vững cho những thẩm quyền của địa phương trong cơ chế phân cấp. Vì thế về nguyên tắc, những lợi ích mà chính quyền tự quản địa phương mang lại phải cao hơn so với chính quyền địa phương được phân cấp dù được phân cấp mạnh mẽ và rộng khắp đến mấy. Do đó, việc thay thế phân cấp quản lý bằng tự quản địa phương ở nước ta chỉ là vấn đề thời gian và quan điểm.
2. Kiến nghị về phạm vi trưng cầu ý dân ở Việt Nam
Một địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm và phát triển theo xu hướng dân chủ thể hiện ở chế độ tự quản địa phương thì không thể bỏ qua hoạt động dân chủ trực tiếp và thiết thực nhất ở địa phương là trưng cầu ý dân về những vấn đề chỉ thuộc về địa phương, để người dân được “tự quyết” vấn đề của bản thân mình trước khi quyết định các vấn đề mang tầm quốc gia. Đây là vấn đề mang tính tất yếu khách quan chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề pháp lý. Trưng cầu ý dân ở địa phương là điều cần thiết vì việc “trưng cầu ý dân ở đâu” không chỉ thuộc về bản thân chế định này mà còn là chuẩn mực để đánh giá và kết luận về xu hướng phát triển chính quyền địa phương ở nước ta. Phạm vi địa phương ở đây không nhất thiết phải đến cấp huyện hay cấp xã, có thể chỉ là cấp tỉnh hoặc vùng (gồm nhiều tỉnh có liên quan trực tiếp đến vấn đề trưng cầu ý dân).
Có thể nói, với tình hình nước ta hiện nay, việc không tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương đã đẩy mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương nước ta rơi vào vòng luẩn quẩn của chế độ tập trung, tập quyền vốn đã rất cũ kỹ và cần được thay đổi toàn diện: đó là một mặt đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương và hướng đến “phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm” của chính quyền địa phương, mặt khác quy định trưng cầu ý dân không được thực hiện ở phạm vi địa phương và Hiến pháp quy định chỉ Quốc hội mới có quyền quyết định trưng cầu ý dân.[33] Như vậy có hay không quyền tự quyết của địa phương và có hay không “vấn đề thuộc thẩm quyền của địa phương” để phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương như “lời hứa” của chính quyền trung ương. Theo ý kiến một số học giả[34] thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân, vậy Quốc hội có thể đảm đương được vai trò quyết định việc trưng cầu ý dân của 63 tỉnh thành và có hợp lý không khi cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất[35] lại quyết định vấn đề trưng cầu ý dân ở một địa phương nào đó. Việc một cơ quan dân cử quốc gia quyết định trưng cầu ý dân ở một địa phương cụ thể là không phù hợp quy tắc trưng cầu ý dân trên thế giới. Tuy nhiên, việc không tổ chức trưng cầu ý dân ở phạm vi địa phương lại càng không phù hợp với quy tắc trưng cầu ý dân trên thế giới và nghiêm trọng hơn điều đó đi ngược lại với lý lẽ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí.
Nước ta vốn có nhiều quy tắc hành chính – chính trị đặc thù: phân cấp cho chính quyền địa phương sao cho vẫn bảo đảm nguyên tắc tập trung, dân chủ là một đặc thù; định hướng xây dựng Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là một đặc thù… Việc Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân ở địa phương nếu lại là một đặc thù thì vẫn dễ chấp nhận ở một nhà nước đơn nhất như Việt Nam hơn là việc không tổ chức trưng cầu ý dân ở phạm vi địa phương. Vì thế, chúng tôi cho rằng nên quy định trong Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân: “Các cuộc trưng cầu ý dân được thực hiện trên phạm vi cả nước và phạm vị địa phương”.
Luật Trưng cầu ý dân không chỉ là sản phẩm của hoạt động lập pháp mà còn là sự thể hiện sâu sắc đạo lý “ý Đảng, lòng Dân” quý báu ở nước ta. Vì nhiều lý do khác nhau mà quyền trưng cầu ý dân dù đã là quyền hiến định từ khi Hiến pháp đầu tiên được ban hành đến nay[36]vẫn không được thực hiện trên thực tế. Hiện tại, đất nước ta đã ổn định, đang trên đà phát triển, lịch sử của Việt Nam và thế giới đã chứng minh rằng nền tảng của một quốc gia thịnh vượng không chỉ phụ thuộc vào các chính sách kinh tế, ngoại giao mà trước hết là sự đoàn kết và quyết tâm của nhân dân. Do đó việc ban hành một Luật Trưng cầu ý dân có nội dung hợp lý, bảo đảm khả thi và hiện thực là một nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử to lớn ở nước ta hiện nay, trong đó “trưng cầu ở phạm vi nào” là nội dung quan trọng để quyền trưng cầu ý dân của người dân được hiện thực hóa, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của Luật Trưng cầu ý dân.
CHÚ THÍCH
[1] Điều 6 Hiến pháp năm 2013.
[2] Điều 3 Hiến pháp năm 2013.
[3] Trần Ngọc Đường, Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thông nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, www.moj.gov.vn/…/Nguyen%20tac%20quyen%20luc%20nha%20nuoc%20la, truy cập ngày 12/4/2015.
[4].http://www.daily-chronicle.com/2015/03/26/our-view-local-referendum-wont-solve-federal-issue/asxjl2z/, truy cập ngày 12/4/2015.
[5] Điều 7 Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân quy định “Các cuộc trưng cầu ý dân được thực hiện trên phạm vi cả nước”.
[6] Phạm Hồng Thái, “Một số vấn đề về phân chia đơn vị hành chính – lãnh thổ”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN (Luật học), số 26, 2010, tr. 73 – 80.
[7] Có thể kể một vài văn bản của Đảng và Nhà nước về việc tăng cường phát huy dân chủ địa phương như: Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính Trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở do Bộ Chính trị ban hành, Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 11 về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Kết luận 65-KL/TW ngày 04/02/2010 của Ban Bí Thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở do Ban Bí thư ban hành, Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ về việc hướng dẫn Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc…
[8] Đầu tiên phải kể đến hiện tượng ban hành “Quy chế dân chủ cơ sở” ở các địa phương nhằm ổn định tình trạng mất dân chủ ở cơ sở: xã, thôn ở một số địa phương. Rồi đến hiện tượng “xé rào” của rất nhiều tỉnh, thành trong việc ban hành các quy định về khuyến khích đầu tư, thực hiện chính sách thuế, thậm chí cả về xử lý vi phạm hành chính… mà người ta chỉ có thể liệt kê vào hiện tượng “ban hành văn bản không hợp pháp” và xử lý theo cách xử lý một văn bản trái pháp luật. Vụ việc gây nhiều tranh cãi trong dư luận hơn cả là vụ thu hồi đất ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng và quy định về cấm nhập cư của HĐND Thành phố Đà Nẵng năm 2011. Sự kiện đánh dấu nhu cầu “tự chủ” của các địa phương là việc Thành phố Hồ Chí Minh trình Chính phủ xin quy chế riêng; tiếp đến là việc thành phố này trình Chính phủ, Bộ Chính trị mô hình chính quyền đô thị và xin tổ chức thí điểm, nội dung chủ yếu của mô hình đó cũng gần với tư tưởng về phân quyền – trao nhiều quyền chủ động cho chính quyền đô thị và thực hiện chế độ thủ trưởng đối với cơ quan hành chính. Sau đó là sự kiện Thành ủy Đà Nẵng đề ra chủ trương xin tổ chức thí điểm dân bầu trực tiếp Chủ tịch UBND thành phố; Chủ tịch UBND thành phố bổ nhiệm Chủ tịch UBND quận, huyện; Chủ tịch UBND quận, huyện bổ nhiệm Chủ tịch UBND cấp xã.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 251.
[10] Nghị Quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 8/11/2011 về phê duyệt tổng thể chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011 – 2020.
[11] Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg về việc áp dụng cơ chế một cửa ở các địa phương.
[12] Đề án về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực được ban hành kèm theo Chỉ thị số 30 ngày 10/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ (Gọi là Đề án 30).
[13] David O&borne và Ted Gaebler, Đổi mới hoạt động của Chính phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, 1997, tr. 55 – 90.
[14] Điều 111, 112 Hiến pháp năm 2013.
[15] Việc thực hiện trưng cầu ý dân ở địa phương thể hiện quyền tự chủ của địa phương, vì thế, một số nước quy định việc trưng cầu ý dân trong các đạo luật về tự quản địa phương, chẳng hạn như Luật Tự quản địa phương của Hungary năm 1999 quy định những vấn đề sau phải được đưa ra trưng cầu ý dân: 1. Về hợp nhất hay tách tỉnh; 2. Về thành lập các tỉnh mới; 3. Về việc thành lập các cơ quan tự quản địa phương. Luật này cũng quy định không được đưa ra trưng cầu ý dân các vấn đề sau: 1. Các vấn đề về ngân sách; 2. Các vấn đề về thuế của địa phương 3. Vấn đề tổ chức cán bộ.
[16] Ở Anh, từ năm 1973 đến năm 2000 có tất cả 8 cuộc trưng cầu ý dân, nhưng trong đó có đến 7 cuộc trưng cầu ý dân được thực hiện ở địa phương và chỉ một lần cho câu hỏi về vấn đề của quốc gia vào năm 1975 về việc “Liệu Anh có nên tham gia vào EEC” và từ đó đến nay không có lần nào nước này tổ chức trưng cầu ý dân ở phạm vi quốc gia. Tương tự, trưng cầu ý dân hiếm khi được thực hiện tại Canada và chỉ ba lần xảy ra ở cấp liên bang: năm 1898 về cấm rượu mạnh, năm 1942 về cưỡng bức nghĩa vụ quân sự và lần gần đây nhất là vào năm 1992 về Hiến pháp Liên bang. Ngoài ra, trưng cầu ý dân cũng đã thực hiện ở địa phương (theo thống kê, tới nay đã có 43 cuộc trưng cầu ở “cấp tỉnh” ở Canada). Chẳng hạn, vào năm 1980 và năm 1995, trưng cầu ý dân đã được tổ chức ở Quebec về việc tách ra khỏi Canada. Tại British Columbia, gần đây nhất (vào 17.5.2005) đã trưng cầu ý dân về việc hệ thống bầu cử mới. Ở cấp độ liên bang (hoặc quốc gia), trưng cầu ý dân chưa từng được thực hiện ở Mỹ. Khác với cấp độ liên bang, ở nhiều bang của Mỹ, trưng cầu ý dân diễn ra thường xuyên. Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, nhiều bang ở Mỹ đã thực hiện trưng cầu ý dân đối với Hiến pháp (như Massachusetts từ năm 1778, New Hampshire 1783, Rhode Island năm 1788). Đến thế kỷ XIX, trưng cầu ý dân tiếp tục được mở rộng đến các bang khác và đến nay, hoạt động này được áp dụng ở tất cả các bang của Mỹ (chỉ trừ bang Delaware). Đặc biệt, riêng bang Massachusetts đã tổ chức 167 cuộc trưng cầu ý dân. Các vùng, miền ở Pháp đã 16 lần tổ chức các hoạt động này. Cũng ở cấp độ này, nước Nga cũng có 3 cuộc bỏ phiếu, Đan Mạch có 6 cuộc bỏ phiếu, Phần Lan 2 lần, Italia 21 lần, Hà Lan 5 lần, Hunggary 1 lần, Đức đã có 45 cuộc trưng cầu ý dân ở các bang, Ấn Độ có 4 lần, Indonesia 1 lần… Xem thêm: http://www.historylearningsite.co.uk/referendums.htm, Vũ Văn Nhiêm, “Một số vấn đề về trưng cầu ý dân”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2008.
[17] Mặc dù vậy, nhưng không phải vì được cho là việc của địa phương mà trưng cầu ý dân ở các nước này không được tổ chức ở tầm quốc gia, chẳng hạn như ở Nhật Bản, cuộc trưng cầu ý dân toàn quốc được tổ chức vào tháng 12/1946 về việc đổi tên gọi truyền thống của Nhật bản từ “Nippon” thành “Myomi”, xem thêm: http://althistory.wikia.com/wiki/Japanese_national_referendum,_1946_%28Myomi_Republic%29, truy cập ngày 10/4/2015
[18] Xem thêm: CSDL PICMS Thông tin Hỏi – đáp phục vụ ĐBQH của Phòng Thông tin, Trung tâm Thông tin – TV – NCKH, Văn phòng Quốc hội, vnclp.gov.vn/uploaded/2011/12/30/34V108_625.doc.
[19] Nguyễn Đăng Dung, Hình thức cuả các nhà nước đương đại, Nxb. Thế Giới, 2004; Viện khoa học tổ chức Nhà nước, Giới thiệu tổ chức bộ máy chính quyền xã ở một số nước trên thế giới, Hà Nội, tháng 8 năm 2000; Nguyễn Sĩ Dũng, “Mô hình chính quyền địa phương ở các nước trên thế giới”, Hội thảo Tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Ninh Thuận, 06/04/2913
[20] Nguyễn Như Phát, “Mô hình chính quyền địa phương ở một số nước châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2002.
[21] Rolando A. Suarez, Administrative law, Rex Bookstore, 2001, tr. 251 – 263.
[22] Nguyễn Như Phát, tlđd.
[23] Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Nga năm 1985.
[24]. ww.slovenia.si/…ovenia/state/local-self-governmen… truy cập lần cuối 15/4/2015.
[25].http://jalandhar.nic.in/html/govt_offices_local_local_self_govt.htm, truy cập lần cuối 25/3/2015.
[26].http://www.thenews.com.pk/Todays-News-9-197212-Local-self-government truy cập lần cuối 25/3/2015.
[27] Tổ chức tự quản địa phương được hình thành từ các đơn vị lãnh thổ tự nhiên, đó là các đơn vị lãnh thổ hình thành một cách tự nhiên, lâu dài trong lịch sử, dân cư quy tụ lại thành cộng đồng theo lối quần cư, có quan hệ chặt chẽ lâu đời, thường là theo dấu hiệu huyết thống, nghề ngiệp, dân tộc, các đặc điểm chung về địa lý tự nhiên, truyền thống văn hóa, lịch sử… Không có một khuôn mẫu chung của các lãnh thổ này về số lượng cũng như mật độ dân cư, diện tích lãnh thổ và đặc điểm địa lý, có thể là đô thị hay nông thôn, miền núi hoặc miền xuôi, đất liền hoặc hải đảo… Vì là lãnh thổ tự nhiên nên việc tổ chức quản lý lãnh thổ này rất cần tính đến nguyện vọng và ý chí của dân cư địa phương để tránh những thương tổn về tâm lý, chính trị mà chắc chắn sẽ phát sinh nếu trung ương không thấy được những đặc thù vốn có của địa phương. Vì thế tổ chức chính quyền địa phương nơi đây cần mang nhiều tính tự quản. – Xem thêm: Nguyễn Cửu Việt, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức đơn vị hành chính”, kỷ yếu hội thảo “Lý luận và thực tiễn xác lập đơn vị hành chính các cấp đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển đất nước”, Bộ Nội vụ, TP.HCM, 2007.
[28] Nguyễn Thị Thiện Trí, “Những luận điểm cho việc tiếp nhận và áp dụng chế độ tự quản địa phương ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2014.
[29] Phân cấp quản lý ở nước ta dù có nhiều đổi mới nhưng vẫn được xác định là trong tình trạng “lúng túng” và “chưa đủ rõ” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa X về Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước (Nghị quyết số 17-NQ-TƯ, ngày 01/8/2007, tr. 1).
[30] J.M.Cohen và S.B.Peterson, Phân cấp quản lý hành chính – Chiến lược cho các nước đang phát triển, (sách dịch), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[31] Nhà pháp luật Việt – Pháp, Kỷ yếu Hội thảo Phân cấp, phân quyền giữa trung ư¬ơng và địa phư¬ơng và quy chế đặc thù của các thành phố lớn, tháng 10 năm 2001, tr. 40
[32] Nguyễn Cửu Việt, “Khái niệm tập quyền, tản quyền và phân quyền”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, (Luật học), số 26, 2010, tr. 214-228; Phạm Hồng Thái, “Phân quyền và phân cấp trong quản lý nhà nước – Một số khía cạnh lý luận, thực tiễn và pháp lý”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, (Luật học), số 27, 2011, tr. 1 – 9.
[33] Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
[34] Bài viết “UBTVQH bàn thảo dự luật Trưng cầu ý dân“; http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=4493.
[35] Điều 69 Hiến pháp năm 2013.
[36] Ở nước ta, ngay từ Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946), tại Điều 21 có quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia” và Điều 32 quy định: “Những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số nghị viên đồng ý”. Đến Hiến pháp năm 1959, việc trưng cầu ý dân được quy định trong Điều 53 (do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định), Hiến pháp năm 1980 quy định trong Điều 100 (do Hội đồng Nhà nước quyết định), Hiến pháp năm 1992 quy định trong Điều 53 và Điều 84 (do Quốc hội quyết định), Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân” (Điều 29 Hiến pháp) và Quốc hội có quyền quyết định trưng cầu ý dân (Điều 70)./.
Tác giả: Nguyễn Thị Thiện Trí* – ThS, Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 07/2015 (92) – 2015, Trang 18-24
Trả lời