Mục lục
Về đối tượng trưng cầu ý dân
- Bàn về “Phạm vi trưng cầu ý dân” – TS. Nguyễn Thị Thiện Trí
- Trưng cầu ý dân và dự liệu các tác động không mong muốn – TS. Phan Nhật Thanh
- Nhận định khả năng áp dụng pháp luật trưng cầu ý dân tại Việt Nam – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Về thông tin, tuyên truyền trong dự thảo luật trưng cầu ý dân ở Việt Nam – TS. Thái Thị Tuyết Dung
- Trưng cầu ý dân tại Việt Nam và bình luận, góp ý dự thảo Luật Trưng cầu ý dân 2015 – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Phạm vi và giới hạn của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân – ThS. Đỗ Thanh Trung
- Trưng cầu ý dân ở Thái Lan: Nguyên lý tốt nhưng khó thực hiện – Narin Jareonsubphayanont
- Trưng cầu ý dân Thụy Điển – tham gia trực tiếp trong nền dân chủ đại diện – Bengt Lundell
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Trưng cầu ý dân của một số quốc gia trên thế giới – TS. Phan Nhật Thanh – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Mối quan hệ giữa Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
TÓM TẮT
Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ thực tiễn xây dựng đất nước, để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa xã hội và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, tất yếu cần có đạo luật về trưng cầu ý dân để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp. Đạo luật này cần thể hiện được tính chất dân chủ phổ biến của chế định trưng cầu ý dân nhưng cũng phải phù hợp với thể chế chính trị, truyền thống văn hóa – lịch sử và và điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của Việt Nam. Tác giả bài viết quan niệm đối tượng trưng cầu ý dân là vấn đề quan trọng nhất của Dự luật Trưng cầu ý dân vì vậy cần có cách quy định phù hợp đề bảo đảm tính thận trọng.
TỪ KHÓA: Trưng cầu ý dân, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
1. Kinh nghiệm thế giới trong việc quy định về đối tượng trưng cầu ý dân
Đối tượng trưng cầu ý dân nói trong bài viết này được hiểu là những vấn đề được đưa ra để yêu cầu cử tri trả lời trong cuộc trưng cầu ý dân, thông thường được thể hiện thành câu hỏi cụ thể trong lá phiếu gửi đến cử tri. Đối tượng trưng cầu ý dân là nội dung quan trọng nhất của luật trưng cầu ý dân. Nó thể hiện tầm quan trọng và ý nghĩa của cuộc trưng cầu ý dân. Đối tượng trưng cầu ý dân được pháp luật các nước quy định rất khác nhau, tùy vào lịch sử ra đời và phát triển của chế định này.
Có ba cách quy định phổ biến trên thế giới về đối tượng trưng cầu ý dân.
Cách thứ nhất: có nhiều nước liệt kê những vấn đề phải đưa ra trưng cầu ý dân, tương ứng với đối tượng này là hình thức trưng cầu ý dân bắt buộc. Đây là là loại trưng cầu ý dân tiến hành khi mà không thể quyết định vấn đề cần giải quyết bằng cách khác, không một cơ quan nhà nước nào được quyền quyết định.[1]
Loại thứ hai: có nhiều nước thừa nhận ngoài việc quy định các vấn đề bắt buộc phải đưa ra trưng cầu ý dân thì còn các vấn đề có thể trưng cầu ý dân nhưng không bắt buộc, gọi là hình thức trưng cầu ý dân tùy nghi. Đối tượng của loại trưng cầu ý dân tùy nghi là tất cả các vấn đề hay dự án, trừ những vấn đề hiến pháp và luật cấm. Việc quyết định tiến hành trưng cầu ý dân hay không tùy thuộc vào cơ quan có thẩm quyền.[2]
Loại thứ ba: ở một số nước, Hiến pháp (hoặc luật) quy định cấm trưng cầu ý dân về một số vấn đề nhất định. Ví dụ, Điều 75 Hiến pháp Ý (và nhiều nước khác) quy định không được đưa ra trưng cầu ý dân những đạo luật về thuế và ngân sách, về đặc xá và đại xá, về trao quyền phê chuẩn điều ước quốc tế. Hạn chế như vậy có lý do của nó. Ví dụ: nếu dự án ngân sách không được thông qua thì dự án ngân sách sau lại cũng phải đưa ra trưng cầu ý dân, mà như thế có thể không chỉ một lần, mà nhiều lần không thông qua được ngân sách. Như vậy, đất nước rơi vào tình trạng kéo dài không có ngân sách được thông qua, tức cũng có nghĩa là không có căn cứ để chi tiêu, không có tiền. Trong khi đó thì ngược lại, Thụy Sĩ đòi hỏi việc xác lập ngân sách và dự toán chi ngân sách phải có sự đồng ý của cử tri.
Hiến pháp Đan Mạch năm 1953 cũng có hạn chế về đối tượng trưng cầu ý dân. Cụ thể, khoản 6 Điều 42 quy định danh mục khá rộng các vấn đề không thể là đối tượng của trưng cầu ý dân như ngân sách và tài chính, cho nhập quốc tịch, quy chế của quốc vương…
Đối tượng trưng cầu ý dân phổ biến là Hiến pháp hoặc những vấn đề cụ thể quy định trong Hiến pháp. Trưng cầu ý dân về vấn đề ban hành hay sửa đổi Hiến pháp gọi là hình thức trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Đây là hình thức phổ biến nhất, và vấn đề trưng cầu ý dân về hiến pháp có ý nghĩa chính trị – xã hội đặc biệt nhất.
Ngoài trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì trưng cầu ý dân về các đạo luật cũng là loại trưng cầu ý dân rất phổ biến. Đối tượng có thể là một đạo luật hoặc một vấn đề thuộc nội dung của luật mà Nghị viện không biểu quyết mà đưa ra biểu quyết toàn dân. Đối tượng biểu quyết cũng có thể là dự án luật hoặc một đạo luật đã được Nghị viện thông qua nhưng phải được cử tri biểu quyết mới có hiệu lực. Điều 75 Hiến pháp Ý còn quy định việc trưng cầu ý dân để bãi bỏ toàn bộ hay một phần của một đạo luật hay một văn bản có giá trị luật. Trường hợp này gọi là trưng cầu ý dân dạng phủ quyết (veto referendum).
Đối tượng của trưng cầu ý dân có thể là vấn đề đặc biệt hệ trọng như thay đổi chính thể. Ví dụ, Úc đã ba lần đưa ra trưng cầu ý dân về vấn đề chuyển nước Úc thành một nước cộng hòa thay cho chính thể quân chủ thuộc Nữ hoàng Anh (1999, 2005 và 2007).
Đối tượng trưng cầu ý dân cũng có thể là vấn đề bất đồng giữa các cơ quan nhà nước. Chẳng hạn: theo khoản 1, Điều 120 Hiến pháp Thụy Sĩ thì nếu một trong hai viện của Quốc hội thông qua nghị quyết về việc cần xem xét lại Hiến pháp mà viện kia không đồng ý thì vấn đề này được đưa ra trưng cầu ý dân.
Một đối tượng khác của trưng cầu ý dân là vấn đề giải tán hay triệu tập Nghị viện. Trưng cầu ý dân dạng này rất ít gặp nhưng cũng đã từng được quy định trong Hiến pháp của Công quốc Liechtenstein năm 1921 là bản Hiến pháp chịu ảnh hưởng bởi bản Hiến pháp Veima của Phổ năm 1919. Điều 48 Hiến pháp Liechtenstein năm 1921 quy định khả năng về trưng cầu ý dân đối với việc giải tán Quốc hội. Trưng cầu ý dân về vấn đề này cũng được quy định trong nhiều bản Hiến pháp của các tiểu bang ở Đức, mặc dù Hiến pháp Liên bang Đức (Luật cơ bản) không quy định.
Thời hạn nhiệm kỳ tổng thống cũng là một đối tượng của trưng cầu ý dân. Chẳng hạn, cuộc trưng cầu ý dân ở Pháp ngày 24/9/2000 về việc rút ngắn thời hạn nhiệm kỳ tổng thống từ 7 năm xuống 5 năm và ý tưởng này đã được đa số cử tri đồng ý, hoặc trưng cầu ý dân tại Ai Cập về quy định giới hạn 2 nhiệm kỳ tổng thống (19/3/2011) khi Ai Cập rơi vào khủng hoảng và Tổng thống Mubarac phải từ chức, trưng cầu ý dân năm 2008 tại Belarus về việc cho phép tổng thống Lucashenco tiếp tục được ra tranh cử nhiệm kỳ ba…
Đối tượng của trưng cầu ý dân mang tính tham khảo thường là những vấn đề ít quan trọng hơn nhưng cũng cần có ý kiến của cử tri vì như vậy vẫn sẽ chính xác hơn là sự biểu quyết của nghị viện. Ví dụ, Thụy Điển từng tiến hành các cuộc trưng cầu ý dân mang tính chất tham khảo về cấm rượu (1992), trưng cầu ý dân về cải cách chế độ hưu trí (1957), về sử dụng năng lượng hạt nhân (1980).
Tóm lại, theo đối tượng thì các vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân rất đa dạng: trưng cầu ý dân về Hiến pháp, trưng cầu ý dân về các đạo luật, trưng cầu ý dân về các vấn đề quốc tế liên quan, trưng cầu ý dân về các vấn đề hành chính nhà nước, trưng cầu ý dân về các vấn đề kinh tế – xã hội. Từ tính chất của các vấn đề trưng cầu ý dân mà có thể có trưng cầu ý dân bắt buộc và trưng cầu ý dân tùy nghi.
Đôi khi Hiến pháp một số nước có quy định trường hợp trưng cầu ý dân lần hai (hay trưng cầu ý dân lại) về một vấn đề, nhất là khi quyết định về vấn đề đó bị bỏ phiếu phản đối. Chẳng hạn, Ý quy định nếu một đạo luật bị bác bỏ trong một cuộc trưng cầu ý dân thì có thể đưa ra trưng cầu ý dân lại nhưng không sớm hơn 5 năm. Thời hạn như thế có thể là dài vì trong khoảng thời gian đó có thể có những biến chuyển chính trị lớn nhưng dù sao thời hạn này cũng cần thiết. Ở Hungary, trưng cầu ý dân lại không thể tiến hành trong thời gian 2 năm, nếu Hiến pháp bị bác bỏ trong cuộc trưng cầu ý dân thì có thể tổ chức trưng cầu ý dân lại trong thời hạn 1 năm.
2. Kiến nghị đối với Việt Nam
Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta một lần nữa đã chỉ rõ: “Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên”.[3] Một trong những nguyên nhân của sai lầm là Đảng đã quan liêu, không dựa vào dân, không coi dân là gốc, không hiểu đúng tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) còn chỉ rõ thêm: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.[4]
Liên hệ kết luận trên đây, có thể thấy, đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã từng đề ra một số chính sách sai lầm, lẽ ra có thể tránh được nếu những chính sách đó được đưa ra lấy ý kiến nhân dân một cách rộng rãi và dân chủ. Chẳng hạn: vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp những năm sau giải phóng miền Nam.[5] Không chỉ có hai vấn đề này mà còn có những vấn đề khác như ngăn sông, cấm chợ, kiểm soát lưu thông hàng hóa thời bao cấp, khoán sản phẩm trong nông nghiệp, vấn đề nhập tỉnh những năm 1970-1980… Giá như lúc đó Đảng và Nhà nước ta tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân một cách thực sự dân chủ, chưa cần nói đến hình thức trưng cầu ý dân một cách bắt buộc mà chỉ là để lắng nghe ý kiến của dân thì đất nước đã không phải trải qua những khó khăn, gian khổ thời bấy giờ. Tư tưởng chủ quan, duy ý chí đã làm cho những chính sách này không hợp lòng dân và trái quy luật, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Vì vậy hiện nay, trưng cầu ý dân đối với Việt Nam là thực sự cần thiết, không phải vì khẩu hiệu hay trào lưu dân chủ chung chung, mà chính là từ những bài học thực tế nói trên của Việt Nam, để không lặp lại những sai lầm trước đây. Nói một cách dễ hiểu thì trưng cầu ý dân chính là để tránh “quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân”, trong đó quan liêu là nguy hại nhất như Bác Hồ luôn căn dặn cán bộ, Đảng viên, vì quan liêu dẫn đến các chủ trương, chính sách sai lầm, là nguồn gốc của mọi sai lầm khác, là nguyên nhân của tham nhũng, lãng phí. Người cho rằng, bệnh quan liêu chỉ gieo hạt vun trồng cho tham ô, lãng phí nảy nở, “vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí”[6] . Lenin trước đây cũng đã cảnh báo về nguy cơ một đảng cầm quyền đánh mất mối giây liên hệ với quần chúng, rằng “nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là những tệ nạn đó”.[7] Như vậy ban hành Luật Trưng cầu ý dân thực chất là chống quan liêu, hách dịch, cửa quyền, là thực hiện phương châm “Ý Đảng, lòng dân”. Ý Đảng – đó là đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Lòng Dân – đó là ý chí, nguyên vọng của nhân dân. Phương châm này đơn giản mà vô cùng sâu sắc nhưng đã có lúc không được thực hiện. Như vậy, suy cho cùng, ban hành Luật Trưng cầu ý dân cũng chính là nhằm bảo vệ vững chắc hơn chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Vì vậy khi nói đến sự cần thiết ban hành Luật Trưng cầu ý dân thì không chỉ nên nêu 4 lý do mang tính tổng quát như trong Tờ trình của Ban soạn thảo Dự án Luật gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội mà còn cần mạnh dạn nêu rõ những bài học cụ thể từ thực tế của nước ta trong quá trình xây dựng đất nước từ trước đến nay. Không chỉ dừng ở việc đánh giá hạn chế của việc lấy ý kiến nhân dân hiện nay mà phải thực sự thấm thía về những sai lầm đã xảy ra trong thực tiễn cách mạng nước ta, ngoài hình thức lấy ý kiến nhân dân hiện nay cần phải có một đạo luật về trưng cầu ý dân. Đó thực sự là nhu cầu từ thực tiễn. Nhận thức như vậy mới có thái độ đúng đắn khi xây dựng Dự án Luật cũng như thi hành Luật sau này.
Vấn đề quan trọng là Việt Nam nên tiếp cận vấn đề đối tượng trưng cầu ý dân một cách thận trọng, vì đây là một đạo luật mang tính nhạy cảm chính trị rất cao, phải có giới hạn về đối tượng trưng cầu ý dân. Từ khi thành lập cho đến nay, nước Việt Nam chưa có luật về trưng cầu ý dân và chưa từng tổ chức trưng cầu ý dân thì nay việc ban hành đạo luật này đã là bước tiến rất lớn trong tiến trình dân chủ hóa chính trị.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh: “Cần phải quy định rõ những điều trong luật chứ dự án còn nêu rất mơ màng, cần phải quy định việc gì đưa ra để trưng cầu ý dân, việc gì trưng cầu ở khu vực, việc gì trưng cầu ở phạm vi toàn quốc, rồi cơ quan nào đứng ra giúp cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức việc trưng cầu ý dân cũng phải nêu rõ trong dự án luật, trong Hiến pháp không đề cập đến việc trưng cầu ý dân, nên luật này sẽ quy định cái gì trưng cầu ý dân”.[8] Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, an ninh của Quốc hội Nguyễn Kim Khoa cho rằng, đây là dự án Luật quan trọng nhưng cũng hết sức “nhạy cảm”. Về mặt nguyên tắc, những vấn đề được trưng cầu ý dân phải có tiêu chí rõ ràng, chứ không thể không có căn cứ gì mà đưa ra việc trưng cầu.[9] Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước nhấn mạnh: “Cần phải làm rất kỹ, đặc biệt là xác định rõ vấn đề nào cần trưng cầu ý dân; nếu không là tự đẩy mình vào nguy cơ bất ổn”.[10] Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai cũng đề nghị cần quy định rõ những vấn đề không được trưng cầu ý dân.[11]
Đây quả thật là những suy nghĩ đầy trách nhiệm và là sự lo lắng có cơ sở. Chúng ta không nên “e ngại” Luật Trưng cầu ý dân của Việt Nam kém dân chủ. Ở đây cần lưu ý các bài học từ quá trình sụp đổ của Liên Xô và những cuộc trưng cầu ý dân trước và sau khi Liên Xô sụp đổ ở Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ. Việt Nam không nên chủ quan về vấn đề bất ổn chính trị do trưng cầu ý dân có thể mang lại. Ngay cả việc cho phép đề nghị trưng cầu ý dân về một vấn đề nào đó, trong những điều kiện nhất định cũng có thể đã là mầm mống của bất ổn chính trị – xã hội. Trong Dự thảo Luật, tinh thần thận trọng này đã được thể hiện ở hai điểm rất quan trọng, đó là: không quy định cử tri có quyền đề xuất trưng cầu ý dân mà chỉ có các cơ quan nhà nước được Luật quy định (là những cơ quan mà về nguyên tắc là đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng) mới có quyền này, và chỉ Quốc hội mới có quyền quyết định việc tiến hành trưng cầu ý dân. Có thể coi đây là hai cái chốt an toàn của Luật Trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, phải chăng vì có hai cái chốt này nên không cần quy định cụ thể những vấn đề không được đưa ra trưng cầu ý dân?
Thiết nghĩ, dự luật cần quy định theo phương án chỉ rõ những vấn đề không thể đưa ra trưng cầu ý dân. Đó là những vấn đề vô cùng thiêng liêng, là kết quả hy sinh, phấn đấu của bao thế hệ người Việt Nam, những vấn đề đó không thể là đối tượng đưa ra trưng cầu ý dân. Nếu đưa ra trưng cầu ý dân thì có khác gì thừa nhận một sự nghi ngờ về tính chính nghĩa, lẽ phải và chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa yêu nước của cả một dân tộc. Chẳng hạn, chỉ riêng việc cho phép đề nghị đưa ra trưng cầu ý dân về Điều 4 Hiến pháp, hay về thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, về độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đã là một sự xúc phạm ghê gớm đến lịch sử anh hùng, bất khuất của dân tộc, đến các thế hệ những người cộng sản và tất cả những người Việt Nam yêu nước đã hy sinh phấn đấu vì độc lập dân tộc và vì sự phồn vinh của đất nước. Đây mới là lý do chính để chúng ta công khai tuyên bố thêm một lần nữa (ngoài Hiến pháp), rằng đó là những chân lý không thể chối cãi, là tình cảm thiêng liêng của nhân dân Việt Nam và do đó hoàn toàn không thể đưa ra trưng cầu ý dân. Quy định như vậy không phải là né tránh hay sợ hãi mà đàng hoàng khẳng định những giá trị cao cả đã được thừa nhận chung bởi nhân dân và dân tộc. Trên tinh thần đó, dự luật cần dứt khoát quy định những những vấn đề sau đây không thuộc đối tượng trưng cầu ý dân:
- Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vì đây là chân lý hiển nhiên và thiêng liêng đối với dân tộc Việt Nam. Hiến pháp đã khẳng định và do đó việc cấm đưa trưng cầu ý dân những vấn đề liên quan đến độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là một lần nữa khẳng định chân lý hiển nhiên đó, một sự tuyên bố công khai rất đỗi tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền và chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Không cho phép trưng cầu ý dân về vị trí lãnh đạo của Đảng là thừa nhận thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam gần 1 thế kỷ qua; thừa nhận công lao quyết định của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, thừa nhận và trân trọng sự hy sinh vô cùng to lớn của tất cả các thế hệ những người cộng sản Việt Nam và những người Việt Nam yêu nước.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và hệ thống chính trị Việt Nam. Không cho phép đề nghị và tổ chức trưng cầu ý dân về nguyên tắc này chính là để khẳng định một lần nữa và công khai về nguyên tắc hiến định này. Đây là nguyên tắc sống còn của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu Hiến pháp đã quy định thì không thể đặt vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân.
- Vấn đề an ninh, quốc phòng như: tổng động viên, tình trạng giới nghiêm, tình trạng khẩn cấp, nghĩa vụ quân sự…
Ngoài những vấn đề dứt khoát không được đưa ra trưng cầu ý dân nói trên thì còn có những vấn đề mà trong thể chế chính trị của nước ta chúng không phải là đối tượng tranh chấp cần phải trưng cầu ý dân mà chỉ cần lấy ý kiến nhân dân để tham khảo như cách thức thành lập, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước. Ở đây không thể có mâu thuẫn, đối đầu và tranh giành quyền lực giữa lập pháp và hành pháp như trong các nước theo cơ chế phân quyền thường dẫn đến khủng hoảng hiến pháp hay khủng hoảng chính trị. Vấn đề gia nhập điều ước quốc tế hoặc các tổ chức quốc tế, các hiệp ước song phương, đa phương cũng là vấn đề không cần đưa ra trưng cầu ý dân. Đây là những vấn đề đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về nhiều lĩnh vực, nếu cần đưa ra trưng cầu ý dân thì chỉ nên là để tham khảo.
Ngoài ra, Việt Nam cũng không cần đưa ra trưng cầu ý dân về những vấn đề như kéo dài nhiệm kỳ của nguyên thủ quốc gia hay của Quốc hội, tiến hành bầu cử trước thời hạn hay không, vì thể chế chính trị Việt Nam cho phép xử lý dễ dàng những vấn đề đó.
Nếu loại trừ những vấn đề nêu trên thì còn lại chủ yếu sẽ là những vấn đề về kinh tế – xã hội như chính sách thu hút đầu tư, chính sách dân số, chính sách hôn nhân và gia đình, chính sách bảo hiểm, chính sách giáo dục (miễn phí hay phải trả tiền), chính sách y tế, chính sách nhà ở, quy hoạch đô thị, chính sách năng lượng hạt nhân; các vấn đề về hành chính nhà nước như chính sách nhập cư, tổ chức chính quyền địa phương, sáp nhập, chia tách đơn vị hành chính – lãnh thổ, vấn đề bầu trực tiếp người đứng đầu cơ quan hành chính; bỏ hay giữ án tử hình… Những vấn đề này rất cần trưng cầu ý dân mà không phải e ngại, vì nó không gây bất ổn chính trị – xã hội, hoàn toàn là những vấn đề thiết thân mà cử tri sẽ quan tâm khi bỏ phiếu để biểu quyết.
Tóm lại, Luật Trưng cầu ý dân không nên quy định theo Phương án 1 tức phương án khái quát: “Những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân là những vấn đề về Hiến pháp và những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội” vì cần hiểu rằng: những vấn đề của Hiến pháp trước hết là những vấn đề đặc biệt hệ trọng, trong đó có những vấn đề về độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; về thể chế chính trị Đảng Cộng sản cầm quyền như đã nói ở trên.
Luật cũng không nên quy định theo Phương án 2 tức nêu những vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân. Phương án 2 cũng sai lầm như phương án 1 ở chỗ Dự thảo Luật cho phép đề nghị Quốc hội đưa ra trưng cầu ý dân về “những chính sách quan trọng có liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia” mà như đã nói ở trên, đây là điều hoàn toàn không nên làm.
Như vậy, Luật Trưng cầu ý dân chỉ nên chọn phương án khẳng định những vấn đề không được đề nghị hoặc không được đưa ra trưng cầu ý dân. Những vấn đề cụ thể nào thì cần có sự cân nhắc thêm nhưng những vấn đề liên quan đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và nền tảng của thể chế chính trị – xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không thể đưa ra trưng cầu ý dân. Những vấn đề khác sẽ do Quốc hội quyết định mà không cần liệt kê trong Luật.
CHÚ THÍCH
1Chẳng hạn, Hiến pháp Thụy Sĩ năm 1999 quy định các vấn đề bắt buộc trưng cầu ý dân tại Điều 140.
[2] Hiến pháp Thụy Sĩ năm 1999, Điều 141.
[3] Tạp chí Xây dựng Đảng, bài viết “CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)“.
[4] Tạp chí Xây dựng Đảng, bài viết “CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)“.
[5] Ông Vũ Ngọc Hoàng (Ủy viên trung ương Đảng), Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương khi trả lời phỏng vấn Báo Tuổi trẻ (ngày 23/4/2015) đã nói: “Có những việc giá như chúng ta có cách làm tốt hơn để tập hợp và khơi dậy sức dân hơn, như cải tạo công thương nghiệp, như hợp tác hóa giai đoạn đầu.”. Xem bài viết: “Chủ trương hòa hợp đã có từ trước 30-4” (Báo Tuổi trẻ ngày 23/4/2015).
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, tr. 490.
[7] V.I.Lenin, Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, t.54, tr. 235.
[8] Phát biểu tại tại buổi họp chiều 25/2/2015, phiên họp thứ 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật Trưng cầu ý dân.
[9] Phát biểu tại tại buổi họp chiều 25/2/2015, phiên họp thứ 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật Trưng cầu ý dân.
[10] Phát biểu tại tại buổi họp chiều 25/2/2015, phiên họp thứ 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật Trưng cầu ý dân.
[11] Phát biểu tại tại buổi họp chiều 25/2/2015, phiên họp thứ 35 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật Trưng cầu ý dân.
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học, trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Trả lời