Mục lục
Thực tiễn ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính và giải pháp hoàn thiện
TÓM TẮT
Xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là một nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính, đã được thể hiện trong các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (XLVPHC) và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC. Thực tiễn thực hiện công tác này thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập. Bài viết phân tích, đánh giá một số hạn chế trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.
Xem thêm:
- Vai trò của quản lý nhà nước đối với giá đất trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam – ThS. Châu Hoàng Thân
- Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm: Nhìn từ khía cạnh quản lý nhà nước và quyền lợi người tiêu dùng – ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
- [PHÂN BIỆT] Hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động lập pháp và tư pháp? Nêu ví dụ? – Xóm Luật
- Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Các hình thức quản lý hành chính nhà nước – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Trách nhiệm hành chính và sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp
- Vài bình luận ngắn các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ – TS. Cao Vũ Minh
- Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm – ThS. Nguyễn Nhật Khanh & ThS. Trần Quốc Minh
- Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo pháp luật hiện hành – TS. Bùi Thị Đào & ThS. Hoàng Thị Lan Phương
- Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường – TS. Cao Vũ Minh
TỪ KHÓA: Quản lý nhà nước, Văn bản pháp luật, Xử phạt vi phạm hành chính
1. Quy định của pháp luật về ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
Trong các văn bản pháp lý, thuật ngữ “quản lý nhà nước về hoạt động xử phạt vi phạm hành chính” không được sử dụng trực tiếp mà pháp luật chỉ sử dụng thuật ngữ “quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC”[1] hoặc “quản lý nhà nước về thi hành pháp luật XLVPHC”.[2] Thuật ngữ “XLVPHC” bao gồm hoạt động xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm cho việc XLVPHC. Do vậy, “quản lý nhà nước về hoạt động XLVPHC” là một trong những nội dung cụ thể của “quản lý công tác thi hành pháp luật XLVPHC” hay “quản lý nhà nước về thi hành pháp luật XLVPHC”. Những nội dung quy định về quản lý nhà nước về thi hành pháp luật XLVPHC cũng chính là những nội dung của quản lý nhà nước về hoạt động XLVPHC.
Trước khi Luật XLVPHC năm 2012 được ban hành thì hoạt động quản lý nhà nước về XPVPHC được quy định trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp lệnh này chỉ quy định trách nhiệm chung của một số cơ quan thực hiện giám sát việc thi hành hoạt động XPVPHC như Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp[3] hay trách nhiệm kiểm tra hoạt động XPVPHC của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp[4] mà không giao về cho một cơ quan chuyên trách cũng như không quy định nội dung cụ thể về quản lý nhà nước về hoạt động XPVPHC.
Luật XLVPHC năm 2012 được ban hành thay thế Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đã hoàn thiện một bước quy định pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước về XPVPHC. Ngoài việc quy định trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc thi hành pháp luật XLVPHC cho các cơ quan nhà nước như pháp lệnh trước đây thì Luật XLVPHC năm 2012 còn quy định cụ thể trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC thuộc về Chính phủ và Bộ Tư pháp.[5] Đồng thời, luật cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC trong đó bao gồm cả quản lý hoạt động XPVPHC, cụ thể:
“Chủ trì hoặc phối hợp trong việc đề xuất, xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về XLVPHC;
Theo dõi chung và báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC; thống kê, xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC;
Chủ trì, phối hợp hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trong việc thực hiện pháp luật về XLVPHC;
Kiểm tra, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan tiến hành thanh tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC”. [6]
Để hướng dẫn quy định này, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật XLVPHC, trong đó dành một chương (Chương II) quy định quản lý nhà nước về thi hành pháp luật XLVPHC (bao gồm cả hoạt động XPVPHC). Văn bản này quy định chi tiết bảy nội dung của quản lý nhà nước về thi hành pháp luật XLVPHC nói chung và hoạt động XPVPHC nói riêng gồm: xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLVPHC; phổ biến pháp luật, hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật XLVPHC; kiểm tra việc thi hành pháp luật XLVPHC; phối hợp thanh tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC; thống kê về XLVPHC và báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC.[7]
Như vậy, xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động XLVPHC là một nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước về XLVPHC, đã được thể hiện trong các quy định của Luật XLVPHC và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP. Từ những căn cứ pháp lý này, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành các hoạt động quản lý cụ thể trên thực tế.
2. Thực tiễn ban hành các văn bản pháp luật về quản lý xử phạt vi phạm hành chính
Thực hiện quy định của Luật XLVPHC năm 2012 và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP về quản lý xử phạt VPHC, các chủ thể quản lý từ trung ương tới địa phương đã khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật nhằm triển khai thực hiện nhiệm vụ này trên thực tế. Nhiều văn bản liên quan đến công tác quản lý XLVPHC đã được ban hành như: Quyết định số 717/QĐ-TTg ngày 15/5/2014 về việc thành lập Cục Quản lý XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật; Quyết định số 1266/QĐ-BTP ngày 03/6/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật; Quyết định số 1950/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng tổ chức bộ máy, biên chế triển khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về XLVPHC của Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan tư pháp địa phương”; Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh… Nhiều văn bản khác cũng đã được các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác và các địa phương ban hành nhằm chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý XLVPHC.
Thông qua các văn bản được ban hành, công tác quản lý XLVPHC đã dần được triển khai và đi vào ổn định, khắc phục được phần nào những hạn chế, bất cập trong hoạt động XLVPHC so với trước đây. Tuy nhiên, qua gần ba năm thực hiện Luật XLVPHC và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, công tác xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật về quản lý XLVPHC cũng còn tồn tại những hạn chế nhất định.
Một là, việc ban hành văn bản hướng dẫn công tác báo cáo thi hành pháp luật về XLVPHC chưa kịp thời, gây ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý
Luật XLVPHC năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013, trong đó có quy định về việc thực hiện báo cáo tình hình thi hành pháp luật về XLVPHC theo định kỳ 6 tháng và hàng năm. Tuy nhiên, đến tháng 10/2014, Bộ Tư pháp mới có văn bản hướng dẫn tạm thời việc báo cáo và đến tháng 8/2015 Thông tư số 10/2015/TT-BTP ngày 31/08/2015 quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác THPL về XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật mới được ban hành. Có nghĩa là, phải đến hai năm sau khi Luật XLVPHC có hiệu lực, Bộ Tư pháp – cơ quan chủ trì về công tác quản lý XLVPHC nói chung và XLVPHC nói riêng mới chính thức có văn bản quy định về mẫu đề cương báo cáo và các biểu mẫu sử dụng trong quá trình tổng hợp số liệu. Chính sự chậm trễ này đã làm cho các Bộ, ngành và địa phương gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi triển khai thực hiện và thường xuyên rơi vào trạng thái bị động. Vì không có biểu mẫu thống kê, xây dựng dữ liệu từ trước nên một số nội dung khi yêu cầu báo cáo không thể đáp ứng được dẫn đến việc tổng hợp số liệu không chính xác, ảnh hưởng hiệu quả công tác quản lý.
Ngay cả khi đã ban hành mẫu văn bản báo cáo nhưng nội dung báo cáo thống kê công tác XLVPHC của các địa phương khác nhau cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổng kết công tác quản lý hoạt động XLVPHC của Bộ Tư pháp. Pháp luật hiện hành quy định, định kỳ 6 tháng mỗi năm, các cơ quan, đơn vị phải lập báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC.[8] Từ bản báo cáo của các cơ quan, đơn vị này, Cục Quản lý XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật sẽ lập bảng thống kê chi tiết làm căn cứ để Bộ Tư pháp tổng kết tình hình thi hành pháp luật về XLVPHC nói chung và về thẩm quyền xử phạt nói riêng. Vì vậy, nội dung bảng báo cáo công tác thi hành pháp luật vi phạm hành chính do các cơ quan, đơn vị lập có vai trò quan trọng. Với bảng báo cáo này ta có thể đánh giá được những ưu điểm và hạn chế của thực trạng triển khai thực hiện các nội dung quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động xử phạt như: hình thức xử phạt, đối tượng vi phạm, hành vi vi phạm phổ biến, thẩm quyền xử phạt; từ đó, xác định được nguyên nhân và hướng giải quyết nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động xử phạt.
Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, nội dung báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC do các cơ quan, đơn vị ở các địa phương lập rất khác nhau, không thống nhất và thiếu những nội dung cần thiết, gây khó khăn trong việc tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện thẩm quyền XLVPHC. Cụ thể, đa phần bản báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC của các cơ quan đơn vị (đặc biệt là đối với cơ quan quản lý có thẩm quyền chung như UBND các cấp) thiếu nội dung thống kê số lượng vụ vi phạm đã bị xử phạt theo chủ thể có thẩm quyền xử phạt, cấp có thẩm quyền xử phạt (hầu hết chỉ thống kê theo lĩnh vực vi phạm, có thể xem báo cáo của các địa phương như: TP. Hồ Chí Minh,[9] Long An,[10] Quảng Ngãi,[11] Tiền Giang,[12] Hà Tĩnh[13]…). Nội dung báo cáo theo chủ thể có thẩm quyền xử phạt, cấp có thẩm quyền xử phạt là căn cứ quan trọng giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhìn nhận được tình hình thực hiện thẩm quyền xử phạt của các chức danh diễn ra nhiều hay ít, hợp lý hay không, cấp nào xử phạt nhiều nhất…
Do đó, cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể đến các cơ quan, đơn vị về nội dung báo cáo công tác thi hành luật XLVPHC phải được trình bày một cách thống nhất về các nội dung và phải có nội dung tổng kết về chủ thể ban hành quyết định XLVPHC, cấp ban hành quyết định xử phạt (trên số lượng vụ vi phạm) (đối với UBND cấp tỉnh thì phải thống kê cả số lượng vụ vi phạm đã xử phạt theo cấp ban hành quyết định xử phạt, số lượng vụ việc đã xử phạt do cấp dưới chuyển lên). Với nội dung mới được bổ sung thống nhất này, Bộ Tư pháp sẽ thấy rõ hơn những ưu điểm, hạn chế và cả nguyên nhân của hạn chế đó trong quá trình triển khai thực hiện thẩm quyền XLVPHC của các chức danh trong văn bản pháp luật về xử phạt. Từ đó, Bộ Tư pháp sẽ tổng kết toàn diện và chính xác về tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong phạm vi cả nước, xây dựng phương án điều chỉnh phù hợp, có kiến nghị hợp lý đến Quốc hội và Chính phủ trong việc hoàn thiện pháp luật về XLVPHC, tăng tính hiệu quả của hoạt động xử phạt trên thực tế.
Hai là, Nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC được ban hành chậm trễ gây khó khăn trong việc quản lý XLVPHC.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC là hệ thống được xây dựng trên cơ sở tích hợp dữ liệu điện tử từ cơ sở dữ liệu về XLVPHC của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và ỦBND các cấp. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 17 Luật XLVPHC năm 2012, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Các Bộ, ngành, UBND các cấp quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm kịp thời cung cấp thông tin cho Bộ Tư pháp về XLVPHC để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia. Đồng thời, khoản 2 Điều 23 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định: “Việc xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia được thực hiện theo nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, phải gần 3 năm kể từ ngày Luật XLVPHC năm 2012 có hiệu lực, Nghị định số 20/2016/NĐ-CP ngày 30/3/2016 quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC mới được ban hành (có hiệu lực vào ngày 15/5/2016).
Cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý về XLVPHC nói chung và XPVPHC nói riêng. Bởi vì, từ hệ thống này, các cơ quan có trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC sẽ có đủ các thông tin, dữ liệu về các lĩnh vực vi phạm, hành vi vi phạm, chủ thể xử phạt, tình hình thi hành các quyết định xử phạt… để từ đó đưa ra các chính sách, biện pháp quản lý phù hợp. Hơn nữa, cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC cũng sẽ là công cụ thiết thực cho công tác xây dựng, ban hành và hoàn thiện pháp luật về XLVPHC, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các văn bản khi được ban hành. Tuy nhiên, việc thiết lập, xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC là không hề đơn giản. Nhiều vấn đề liên quan đến việc xác định giá trị pháp lý của cơ sở dữ liệu này, tính bảo mật thông tin cá nhân, kinh phí, nhân lực để triển khai cần phải được xem xét, nghiên cứu một cách toàn diện trước khi ban hành. Nếu không có sự thống nhất, kết nối thì vô hình trung cơ sở dữ liệu này sẽ trở thành một “mớ thông tin hỗn độn”[14]. Đó là lý do chính dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình xây dựng, ban hành Nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC.
Mặc dù vậy, việc kéo dài thời gian ban hành những văn bản quan trọng như thế này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình triển khai thi hành nhiệm vụ trong công tác quản lý nhà nước về XLVPHC mà còn phản ánh phần nào hạn chế của cơ quan quản lý trong hoạt động xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật.
Ba là, chưa xây dựng, ban hành văn bản quy định về công tác kiểm tra và phối hợp thanh tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC.
Công tác kiểm tra và phối hợp thanh tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC là hai trong số các nội dung quản lý công tác XLVPHC nói chung và XPVPHC nói riêng, quy định tại Điều 21, 22 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP. Đây là hai nhiệm vụ quan trọng trong chuỗi các nhiệm vụ quản lý nhà nước về XLVPHC. Thế nhưng, cho đến nay việc thực hiện các nhiệm vụ này mới chỉ dừng lại ở những quy định chung trong Luật XLVPHC năm 2012 và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP mà chưa có bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn một cách chi tiết để triển khai thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước. Dĩ nhiên, ở các địa phương cũng đã ít nhiều có văn bản quy định những nội dung liên quan đến công tác kiểm tra và phối hợp thanh tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC. Nhưng hơn hết, chúng ta cần một văn bản tầm Nghị định để quy định chi tiết những nội dung liên quan đến các vấn đề như: xử lý trách nhiệm của người có thẩm quyền XLVPHC vi phạm chế độ công vụ trong việc thực thi pháp luật về XLVPHC; xử lý việc thực hiện kết luận sau thanh tra, kiểm tra để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và phối hợp thanh tra tình hình thi hành pháp luật về XLVPHC.
Từ những phân tích trên cho thấy, thực trạng công tác xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật về quản lý XLVPHC vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Việc chậm trễ trong công tác xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật về quản lý XLVPHC đã ảnh hưởng không ít đến quá trình thực hiện trên thực tế. Do đó, trong thời gian tới, thiết nghĩ các cơ quan quản lý cần phải chú trọng hơn nữa trong việc ban hành các văn bản cần thiết nhằm bảo đảm cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động XLVPHC được triển khai thống nhất, đồng bộ và mang lại hiệu quả cao nhất.
3. Các giải pháp hoàn thiện công tác ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
Thứ nhất, ban hành các văn bản pháp luật để bảo đảm thi hành Nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC
Như đã phân tích, hành vi vi phạm hành chính (VPHC) xảy ra thường xuyên, đa dạng ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực và tác động đến hầu hết các mối quan hệ, các chủ thể trong xã hội nhưng vì chưa xây dựng hệ cơ sở dữ liệu về VPHC nên việc cập nhật kịp thời thông tin, thống kê về tình hình VPHC và áp dụng biện pháp XLVPHC còn khó khăn, chủ yếu tác nghiệp vào sổ thủ công. Việc thống kê phân loại lĩnh vực, hành vi vi phạm, chủ thể xử phạt, đánh giá tình hình VPHC, theo dõi việc thi hành các quyết định xử phạt, áp dụng biện pháp XLVPHC… gặp rất nhiều vướng mắc. Do đó, để giải quyết vấn đề này không chỉ cần một văn bản ở tầm nghị định mà cần có các văn bản phối hợp triển khai, cụ thể:
– Ban hành văn bản quy định cơ chế sử dụng, chia sẻ và cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thông tin và các chủ thể có thẩm quyền XLVPHC để các thông tin này được sử dụng hiệu quả. Trên cơ sở số liệu thực tế các vụ việc VPHC, sau khi tiến hành số hóa và cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC, các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, cơ quan có trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC có đủ các thông tin, dữ liệu tổng thể về XLVPHC để đưa ra các chính sách, biện pháp quản lý nhà nước, quản lý xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội từng thời kỳ, đồng thời phục vụ thiết thực cho công tác nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các văn bản quy định về XLVPHC được ban hành.
– Ban hành văn bản quy định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có liên quan như Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Công an… Theo quy định pháp luật hiện hành, chủ thể có thẩm quyền XPVPHC rất nhiều và thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau như các cơ quan quản lý theo ngành dọc (thuế, hải quan) hoặc các cơ quan có quy định riêng biệt (như cơ quan công an, quân đội), nên nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC đang nắm giữ thông tin thì các thông tin sẽ không được cung cấp nhanh chóng, kịp thời.
– Cần xây dựng một hệ thống mạng dữ liệu riêng biệt do các chuyên gia giỏi viết phần mềm, không nên nhập chung vào trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp vì hiện nay trang thông tin điện tử này thường hay gặp nhiều sự cố.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
Thực tế cho thấy khi quá trình thi hành Luật XLVPHC năm 2012 đã bắt đầu đi vào ổn định thì rất nhiều bất cập trong quy định về xử phạt VPHC cũng dần được bộc lộ, gây lúng túng cho các cơ quan, người có thẩm quyền khi áp dụng. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 5 Luật XLVPHC năm 2012 và Điều 1 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính chỉ bao gồm cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, trên thực tế phát sinh những đối tượng thực hiện hành vi vi phạm hành chính là hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân hoặc cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo. Đối với các đối tượng mới này, do chưa có hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan có thẩm quyền thường gặp khó khăn trong quá trình xử lý. Bởi vì, việc xác định đối tượng vi phạm là cá nhân hay tổ chức sẽ có ý nghĩa quyết định đến mức phạt tiền áp dụng đối với chủ thể vi phạm dựa trên nguyên tắc: “Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân”(điểm e khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC năm 2012).
Do đó, Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 81/2013/NĐ-CP hoặc ban hành các văn bản mới để hướng dẫn chi tiết và thống nhất những quy định về xử phạt vi phạm hành chính đang còn nhiều bất cập trong Luật XLVPHC năm 2012. Từ đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng thống nhất, mang lại hiệu quả cao nhất trong quản lý nhà nước về XPVPHC. Rất nhiều quy định về XPVPHC trong Luật XLVPHC năm 2012 đang cần được hướng dẫn như:
– Cần hướng dẫn thống nhất trong việc lập hồ sơ xử lý vi phạm hành chính, nhất là các hồ sơ đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh xử phạt theo thẩm quyền quy định tại Điều 38 Luật XLVPHC năm 2012.
– Cần hướng dẫn cụ thể khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC, đặc biệt là chi tiết thủ trưởng trực tiếp của người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc cho phép gia hạn thời gian ban hành quyết định xử phạt là chủ thể nào.
– Cần hướng dẫn đối với quyết định xử phạt trong trường hợp không giao được quyết định cho đối tượng vi phạm hay trường hợp quá thời hạn 01 năm, đối tượng vi phạm không phải thi hành quyết định xử phạt thì xử lý như thế nào đối với quyết định xử phạt đã ban hành.
– Cần hướng dẫn khi thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trường hợp chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành đối với trường hợp vi phạm hành chính xảy ra ở địa bàn cấp huyện này nhưng cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở ở địa bàn cấp huyện khác trong cùng một tỉnh thì sẽ giải quyết như thế nào,…
Thứ ba, thống nhất các loại văn bản hướng dẫn về quản lý hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
Bộ Tư pháp cần thống nhất các văn bản hướng dẫn về quản lý hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trên cả nước, không nên để các địa phương ban hành các văn bản như công văn, thông báo có nội dung giao nhiệm vụ cụ thể hoặc hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất trong những trường hợp còn nhiều quan điểm khác nhau, bởi vì hiện nay việc XPVPHC phải tuân theo Luật XLVPHC năm 2012 và các nghị định, còn các địa phương chỉ ban hành các văn bản như chấn chỉnh công tác xử phạt, các biện pháp hỗ trợ việc XPVPHC hiệu quả hơn.
Thứ tư, ban hành văn bản quy định cụ thể về ngân sách liên quan đến quản lý hoạt động XPVPHC
Các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản quy định cụ thể về ngân sách liên quan đến quản lý hoạt động XPVPHC như mức chi, nội dung chi, nguồn kinh phí trong từng loại việc để trong quá trình triển khai thực hiện Luật XLVPHC không gặp nhiều khó khăn, lúng túng như hiện nay.
CHÚ THÍCH
* TS. Luật học, Trưởng Bộ môn Luật Hành chính, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh
**,***Giảng viên, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh
[1] Điều 17 Luật XLVPHC năm 2012.
[2] Chương II Nghị định số 81/2013/NĐ-CP.
[3] Điều 114, 115 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002.
[4] Điều 116, 117 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002.
[5] Điều 17 Luật XLVPHC năm 2012.
[6] Khoản 2 Điều 17 Luật XLVPHC năm 2012.
[7] Điều 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật XLVPHC.
[8] Khoản 4 Điều 25 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP.
[9] Báo cáo số 191/BC-UBND ngày 30/7/2015 của UBND TP Hồ Chí Minh về Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, kỳ báo cáo 6 tháng năm 2015.
[10] Báo cáo số 81/BC-UBND ngày 08/5/2015 của UBND tỉnh Long An về Công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính 6 tháng đầu năm 2015 trên địa bàn tỉnh.
[11] Báo cáo Kết quả công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi..http://www.quangngai.gov.vn/sotp/Pages/qnp-ketquacongtacthihanh-qnpnd-945-qnpnc-23-qnpsite-1.html. Truy cập ngày 10/12/2015.
[12] Báo cáo số 196/BC-UBND ngày 06/11/2014 của UBND tỉnh Tiền Giang về Kết quả Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2014.
[13] Báo cáo số 492/BC-UBND ngày 18/11/2014 của UBND tỉnh Hà Tĩnh về Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2014.
[14] Nguyễn Minh, Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính: Không thể vội vàng, ngày 04/11/2015,.http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=411201553958546191&MaMT=24&MaNT=2.
- Tác giả: TS. Thái Thị Tuyết Dung – ThS. Mai Thị Lâm – ThS. Trương Tư Phước
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý số 01(104)/2017 – 2017, Trang 20-25
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời