Phân tích năng lực chủ thể quan hệ pháp luật hành chính. Cho ví dụ cụ thể?
- Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật hành chính. Cho ví dụ minh họa về một quan hệ pháp luật hành chính?
- Phân tích khái niệm quản lý hành chính nhà nước. Cho ví dụ về một hoạt động quản lý hành chính nhà nước?
- [PHÂN BIỆT] Hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động lập pháp và tư pháp? Nêu ví dụ?
- Một số ý kiến về hoạt động ban hành VBQPPL của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
- Thiếu thống nhất quy định “Đình chỉ” và “Tạm đình chỉ” trong các VBQPPL
- Về thời điểm có hiệu lực của VBQPPL thông qua một vụ án cụ thể
- Điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPPL) 2015
- Nội dung, tính chất của “Nghị định” trong Luật Ban hành VBQPPL
TỪ KHÓA: Luật hành chính, Quan hệ pháp luật
1. Năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là gì?
Năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là khả năng pháp lý của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể của quan hệ đó. Năng lực chủ thể gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
2. Năng lực của thể của các chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính:
a- Các cơ quan hành chính nhà nước – chủ thể cơ bản của pháp luật hành chính
Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan nhà nước đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan nhà nước đó bị giải tán. Năng lực này được pháp luật hành chính quy định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó trong quản lý hành chính nhà nước.
VD: Chương II – Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính Phủ/Luật Tổ chức Chính phủ 2015.
b- Cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức cũng phải có năng lực pháp luật, đặc biệt là năng lực hành vi đầy đủ. Khi trở thành cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, họ sử dụng quyền lực của nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình tác động tới đối tượng quản lý để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ được giao. Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức được pháp luật quy định phù hợp với năng lực chủ thể của cơ quan và vị trí công tác của cán bộ công chức đó. Họ chỉ là cán bộ, công chức khi họ thực hiện công việc của mình. Còn ngoài chức vụ quyền hạn của mình thì cán bộ công chức không còn là cán bộ công chức nhà nước sử dụng quyền lực nữa mà trở thành cá nhân bình thường.
VD: Chương II – Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức/Luật Cán bộ, công chức số 25/2019/VBHN-VPQH.
c- Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang, đơn vị hành chính sự nghiệp
Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế , đơn vị vũ trang, đơn vị hành chính – sự nghiệp… (gọi chung là tổ chức) phát sinh khi nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó trong quản lý hành chính nhà nước và chấm dứt khi không còn những quy định đó hoặc tổ chức bị giải thể. Như vậy sự tồn tại của các tổ chức này quyết định năng lực chủ thể của chúng. Do không có chức năng quản lý nhà nước nên các tổ chức nêu trên thường tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính với tư cách chủ thể thường. Cá biệt trong một số trường hợp được nhà nước trao quyền quản lý hành chính nhà nước đối với một số công việc cụ thể, các tổ chức này có thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể đặc biệt.
VD: Điều 2 Quyết định 868/2015/QĐ-BTP Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Luật Hà Nội.
d- Năng lực chủ thể của cá nhân
Với các chủ thể đặc biệt trong quản lý hành chính nhà nước, năng lực chủ thể của những cơ quan này chỉ xem xét ở góc độ năng lực pháp luật – khả năng pháp luật cho phép họ thực hiện những gì và phải thực hiện những gì mà không xem xét đến năng lực hành vi – khả năng pháp luật thừa nhận và với khả năng đó họ có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ và gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định với hành vi mà họ thực hiện. Tuy nhiên với cá nhân, năng lực chủ thể lại được xem xét trong tổng thể cả 2 loại năng lực là năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính. Có điểm khác biệt này là bởi năng lực hành vi của những cơ quan này đã được thừa nhận ngay khi bầu cử, bổ nhiệm, phê chuẩn cán bộ, công chức hoặc khi thành lập cơ quan đó. Còn với cá nhân, khả năng thực hiện hành vi trên thực tế còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác.
VD1: Cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên mới có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. – Độ tuổi.
VD2: Người bị tâm thần thì không thể có năng lực hành vi để tham gia quan hệ pháp luật hành chính, – Sức khoẻ.
VD3: Điểm a khoản 1 điều 36 về điều kiện đăng ký dự tuyển công chức: Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp. – Trình độ học vấn, trình độ đào tạo.
Có thể thấy, thời điểm phát sinh năng lực pháp luật và năng lực hành vi hành chính của cá nhân không giống nhau. Điều này phụ thuộc vào khả năng thực hiện trên thực tế của cá nhân và cách thức Nhà nước thừa nhận khả năng đó.
VD: Điểm d khoản 1 Điều 60 Luật Giao thông đường bộ 2008: “Người đủ 24 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi; lái xe hạng C kéo rơ moóc, sơ mi rơ moóc (FC)”. Tuy nhiên, muốn thực hiện được trên thực tế thì người đủ 24 tuổi phải thi bằng lái xe hạng FC.
Trả lời