Mục lục
Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm
Tác giả: ThS. Nguyễn Nhật Khanh & ThS. Trần Quốc Minh
TÓM TẮT
Nhằm bảo đảm hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng chống các vi phạm hành chính về mại dâm thì xử phạt vi phạm hành chính được xem là một giải pháp hữu hiệu. Tuy nhiên, quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm vẫn còn tồn tại một số bất cập, từ đó gây ra nhiều khó khăn cho công tác xử phạt trong thực tiễn. Bài viết phân tích một số bất cập trong các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm và đề xuất phương hướng hoàn thiện.
Xem thêm:
- Dấu hiệu pháp lý của Tội Môi giới mại dâm
- Dấu hiệu pháp lý của Tội Chứa mại dâm
- Dấu hiệu pháp lý của Tội Mua dâm người dưới 18 tuổi
- Hoàn thiện pháp luật xử phạt VPHC đối với các vi phạm về mại dâm
TỪ KHÓA: Xử phạt vi phạm hành chính, Mại dâm, Mua dâm, Luật hành chính, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2019,
1. Mại dâm là gì?
Mại dâm là hiện tượng gây ra nhiều vấn đề nan giải cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục của đất nước. Ngày 17/3/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 nhằm kêu gọi toàn thể cộng đồng cùng chung tay ngăn chặn tệ nạn mại dâm, bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, danh dự, nhân phẩm của con người. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định các biện pháp pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật về mại dâm nhằm thể hiện sự đấu tranh quyết liệt đối với loại vi phạm phổ biến này. Trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, các vi phạm về mại dâm hiện nay được quy định từ Điều 22 đến Điều 25 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính về mại dâm cho thấy số lượng vi phạm không hề giảm đi mà ngày càng có chiều hướng gia tăng, hình thức thực hiện vi phạm ngày càng phức tạp dưới những hình thức trá hình như massage, xông hơi, karaoke.[1] Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này xuất phát từ các hạn chế trong quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm về mại dâm.
2. Hạn chế trong quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm về mại dâm
2.1. Mức phạt tiền còn quá thấp
Thứ nhất, chế tài phạt tiền đối với các vi phạm hành chính về mại dâm còn quá thấp, chưa đủ sức răn đe
Phạt tiền là hình thức xử phạt buộc cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách nhà nước. Trong các hình thức xử phạt, hình thức phạt tiền được quy định phổ biến nhất vì phạt tiền có nhiều mức phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi vi phạm. Nhiều nước trên thế giới quy định phạt tiền là hình thức phạt hành chính.[2]
Với ý nghĩa đó, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định tất cả các vi phạm hành chính về mại dâm đều áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Quy định này đánh vào lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm nhằm mục đích giúp họ nhận thấy thiệt hại về mặt vật chất để nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điểm hạn chế còn tồn tại là mức phạt tiền đối với các vi phạm hành chính về mại dâm trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP còn quá thấp, chưa tương xứng với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm nên không đủ sức răn đe, ngăn chặn vi phạm xảy ra trong tương lai. Đơn cử, người có hành vi bán dâm thì chỉ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng. Trường hợp bán dâm cho nhiều người cùng một lúc thì cũng chỉ bị phạt tiền với mức từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng.[3] Chính vì lý do này, nhiều trường hợp người bán dâm sẵn sàng chấp nhận nộp phạt để tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm bởi lợi ích kinh tế họ có được từ hành vi bán dâm cao hơn nhiều so với mức phạt mà Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định.
Đơn cử, chiều 30/8/2018, trinh sát Đội phòng chống mại dâm Công an Thành phố Hồ Chí Minh ập vào hai khách sạn ở Quận 1 và 5, bắt quả tang 4 đôi nam nữ mua bán dâm. Điều đáng nói là các cô gái này là người mẫu, diễn viên hoạt động tại TP. Hồ Chí Minh, giá các cô phục vụ khách đến nhiều nghìn USD mỗi giờ.[4] Chính vì có mức thu nhập cao như vậy nên các cô gái bán dâm này sẵn sàng nộp phạt 100.000 đồng đến 300.000 đồng để tiếp tục vi phạm. Trong khi đó, đối với người mua dâm, tuy mức xử phạt cao hơn so với người bán dâm, nhưng cũng chẳng “thấm” vào đâu nên không đáp ứng được mục đích trừng trị, răn đe người vi phạm.[5] Bên cạnh đó, hành vi mua dâm, bán dâm được xác định chưa phải là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên pháp luật quy định chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính chứ chưa thể cấu thành tội phạm để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì thế người vi phạm có tâm lý coi thường pháp luật, sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục thực hiện vi phạm.[6] Do đó, chúng tôi thiết nghĩ Nghị định số 167/2013/NĐ-CP cần phải tăng mức tiền phạt đối với các vi phạm hành chính về mại dâm thì mới đủ sức răn đe chủ thể vi phạm, từ đó mới hy vọng giảm thiểu tình trạng vi phạm về mại dâm đang diễn ra phổ biến trong thực tế.
2.2. Nhiều quy định có sự chồng lấn, trùng lặp
Thứ hai, nhiều vi phạm về mại dâm bị xử phạt vi phạm hành chính trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP có sự chồng lấn, trùng lắp với nhau
Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 quy định “môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm”.[7] Theo quy định này có thể hiểu hành vi “dẫn dắt, dụ dỗ hoạt động mua dâm, bán dâm” chính là biểu hiện cụ thể của hành vi “môi giới mại dâm”. Tuy nhiên, Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP lại quy định các hành vi này thành các vi phạm khác nhau. Cụ thể, điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định người có hành vi “dẫn dắt, dụ dỗ hoạt động mua dâm, bán dâm” thì bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Trong khi đó, điểm c khoản 4 Điều này lại quy định người nào có hành vi “môi giới mua dâm, bán dâm nhưng không thường xuyên” thì bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Như vậy, có thể thấy cùng một vi phạm với bản chất như nhau lại được quy định thành các hành vi khác nhau với mức tiền phạt rất chênh lệch (gấp 4 lần) là không phù hợp.
Tương tự bất cập trên, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 quy định “bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm”.[8] Từ quy định này có thể xác định hành vi “bảo kê mại dâm” bao gồm các hành vi sau: (i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm; (ii) Lợi dụng uy tín để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm; (iii) Dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm; (iv) Đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm. Tuy nhiên, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP lại tiếp tục có sự trùng lặp trong việc quy định về xử phạt đối với hành vi “bảo kê mại dâm”. Cụ thể, điểm b khoản 2 Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định người có hành vi “Che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm” thì bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Trong khi đó, các hành vi là biểu hiện cụ thể của “bảo kê mại dâm” lại được quy định với những mức phạt khác cao hơn. Theo đó, khoản 3 Điều này quy định người nào có hành vi “Lợi dụng uy tín để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm” (điểm a) hay “Đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm” (điểm b) thì bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Trong khi đó, khoản 4 Điều này lại quy định người nào có hành vi “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm” (điểm a) hay “Dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mua dâm, bán dâm” (điểm b) thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Như vậy, có thể thấy rằng cùng một dạng hành vi với bản chất như nhau nhưng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP lại quy định thành 3 nhóm vi phạm với 3 khung tiền phạt khác nhau là không hợp lý.
Những bất cập kể trên có thể tạo ra sự lạm dụng và thiếu nhất quán trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về “môi giới mại dâm” và “bảo kê mại dâm” trên thực tế bởi lẽ việc xử phạt theo quy định nào hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền, trong khi mức tiền phạt áp dụng khác nhau sẽ gây ra những thiệt hại nhất định đến lợi ích vật chất của người bị xử phạt.
2.3. Khó phân định giữa vi phạm hành chính và tội phạm
Thứ ba, ranh giới giữa xử phạt vi phạm hành chính và xử lý hình sự đối với các vi phạm về mại dâm không rõ ràng, còn có sự mâu thuẫn với nhau
Như đã trình bày, các quy định của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đang có sự trùng lắp, chồng lấn trong việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi “môi giới mại dâm” bởi cùng một dạng vi phạm nhưng lại quy định thành nhiều mức phạt khác nhau, hành vi “dẫn dắt, dụ dỗ hoạt động mua dâm, bán dâm” thì bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, còn hành vi “môi giới mua dâm, bán dâm nhưng không thường xuyên” thì bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Ngoài ra, bên cạnh chế tài hành chính, hành vi môi giới mại dâm còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về “Tội môi giới mại dâm” như sau:
Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Có tổ chức;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Phân tích điều luật trên có thể thấy hành vi trong mặt khách quan cấu thành tội môi giới mại dâm là hành vi “làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm”. Đối với cấu thành cơ bản thì hành vi này bị áp dụng chế tài phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Đối chiếu với Nghị định số 167/2013/NĐ-CP có thể thấy hành vi này cũng được quy định là vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính. So sánh hai văn bản này có thể thấy hành vi vi phạm là giống nhau nhưng chế tài và trách nhiệm pháp lý lại hoàn toàn khác nhau. Một bên là trách nhiệm hành chính và một bên là trách nhiệm hình sự. Rõ ràng, trong trường hợp này đã có sự chồng chéo nhau về chế tài giữa hành chính và hình sự khi xử lý hành vi môi giới mại dâm. Điều này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật trên thực tế bởi lẽ trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự là hai loại trách nhiệm pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Trong đó, trách nhiệm hình sự áp dụng với những vi phạm hình sự (tội phạm) có tính chất, mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội còn trách nhiệm hành chính áp dụng đối với vi phạm có mức độ nguy hiểm thấp hơn là vi phạm hành chính. Thậm chí, sự bất cập này còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều khiếu nại, khởi kiện liên quan đến việc áp dụng pháp luật đối với hành vi môi giới mại dâm, từ đó làm giảm hiệu quả của việc đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật.
Vấn đề có tính thực tiễn đặt ra cho các chủ thể có thẩm quyền là khi phát hiện hành vi “làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm” thì sẽ áp dụng văn bản nào để giải quyết. Xét về hiệu lực áp dụng, khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Trong trường hợp này, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị định số 167/2013/NĐ-CP nên văn bản sẽ được áp dụng để điều chỉnh là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuy nhiên, thực tiễn xử lý vi phạm cho thấy khi các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phát hiện người có hành vi “làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm” thì sẽ áp dụng quy định của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để xử phạt. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và đặc biệt là Tòa án, khi phát hiện hành vi nói trên sẽ áp dụng Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thực ra cách giải quyết này chỉ là giải pháp tình thế để khắc phục bất cập của pháp luật chứ việc áp dụng trách nhiệm pháp lý khác nhau đối với một vi phạm pháp luật giống nhau là điều hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc truy cứu trách nhiệm pháp lý, đồng thời không phù hợp với yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Bên cạnh đó, liên quan đến các vi phạm về mại dâm, giữa Nghị định số 167/2013/NĐ-CP và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) vẫn còn trường hợp chồng chéo khác đó là quy định về xử lý đối với hành vi cưỡng đoạt tài sản của người mua dâm, bán dâm. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định người nào có hành vi “Dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đòi tiền, cưỡng đoạt tài sản” thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.[9] Trong khi đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng có quy định về “Tội cưỡng đoạt tài sản” tại Điều 170 như sau:
“1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Phân tích kỹ nội dung có thể thấy hành vi “dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đòi tiền, cưỡng đoạt tài sản” trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP là một dạng cụ thể của hành vi “cưỡng đoạt tài sản” trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có chăng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định nạn nhân của hành vi cưỡng đoạt tài sản trong trường hợp này là người mua dâm, bán dâm. Do đó, người thực hiện hành vi này vừa có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, vừa có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản. Trong khi như đã trình bày, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự là hai trách nhiệm pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Điều này cũng tạo ra sự chồng lấn giữa các văn bản trong việc quy định chế tài đối với hành vi “cưỡng đoạt tài sản”.
Do đó, cần xem xét loại bỏ sự chồng chéo giữa hai văn bản này trong việc quy định về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi “môi giới mại dâm” và hành vi “cưỡng đoạt tài sản đối với người mua dâm, bán dâm” nhằm bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.
2.4. Hình thức xử phạt trục xuất chưa được quy định rõ ràng
Thứ tư, quy định về áp dụng hình thức xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài vi phạm hành chính về mại dâm còn chưa rõ ràng
Đối với người nước ngoài vi phạm hành chính tại Việt Nam thì Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định một hình thức xử phạt đặc trưng – đó là hình thức xử phạt trục xuất. Theo đó, trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài vi phạm hành chính phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các vi phạm hành chính về mại dâm, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định người nước ngoài có hành vi bán dâm thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[10]
Bất cập ở chỗ Nghị định số 167/2013/NĐ-CP không đưa ra các tiêu chí cụ thể cho việc áp dụng, thay vào đó lại quy định công thức định tính “tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất”. Như vậy, tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào “mức độ vi phạm”, chủ thể có thẩm quyền sẽ quyết định có áp dụng hình thức xử phạt trục xuất hay không. Vấn đề có tính thực tiễn đặt ra là việc xác định “mức độ vi phạm” sẽ căn cứ vào tiêu chí nào? Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và cả Nghị định số 167/2013/NĐ-CP không có bất kỳ điều khoản nào quy định về “mức độ vi phạm” để làm căn cứ áp dụng hình thức xử phạt trục xuất. Vậy khi gặp trường hợp người nước ngoài có hành vi bán dâm thì người có thẩm quyền sẽ dựa tiêu chí nào để xác định “mức độ vi phạm” làm căn cứ ban hành quyết định trục xuất. Tất nhiên, mọi vi phạm phải bị xử phạt, thế nhưng, việc áp dụng hình thức xử phạt đúng với mức độ vi phạm có tác dụng răn đe, giáo dục cao hơn là việc áp dụng mang tính tùy tiện, võ đoán. Thậm chí, với quy định này có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người có thẩm quyền cũng sẽ băn khoăn, lo lắng khi đưa ra quyết định trục xuất vì rất dễ vi phạm nguyên tắc “khách quan, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật” được nêu tại khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.[11]
2.5. Có sự nhầm lẫn giữa hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Thứ năm, có sự nhầm lẫn giữa hình thức xử phạt với biện pháp khắc phục hậu quả trong các quy định về chế tài áp dụng đối với các vi phạm hành chính về mại dâm
Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định 05 hình thức xử phạt áp dụng trong xử phạt vi phạm hành chính gồm: (i) cảnh cáo, (ii) phạt tiền; (iii) tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; (iv) tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; (v) trục xuất. Trong đó, cảnh cáo và phạt tiền là 02 hình thức xử phạt chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính. Đối với 03 hình thức xử phạt còn lại là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và trục xuất có thể được quy định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính.
Dựa trên quy định này, khi ban hành các nghị định để quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực, Chính phủ phải bảo đảm các hình thức xử phạt được áp dụng trong các lĩnh vực cụ thể phải phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Tuy nhiên, khi quy định hình thức xử phạt áp dụng đối với các vi phạm hành chính về mại dâm, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP lại có sự mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Cụ thể, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định chủ thể thực hiện hành vi “cung cấp địa điểm cho hoạt động mua dâm, bán dâm; dẫn dắt, dụ dỗ hoạt động mua dâm, bán dâm; che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm; lôi kéo, ép buộc hoặc cưỡng bức người khác bán dâm; dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đòi tiền, cưỡng đoạt tài sản” ngoài bị áp dụng hình thức xử phạt chính là “phạt tiền” còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là “tịch thu số tiền do vi phạm hành chính mà có”.[12]
So sánh hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu số tiền do vi phạm hành chính mà có” trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP với quy định về hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính” trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có thể thấy hai biện pháp chế tài này có nét tương đồng về tên gọi, tuy nhiên phân tích kỹ nội dung pháp lý, chúng tôi cho rằng đây là hai chế tài có bản chất pháp lý khác nhau.
Theo quy định tại Điều 26 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức”. Để hướng dẫn thực hiện quy định này, khoản 2 Điều 3 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017) có hướng dẫn như sau:
“2. Việc quy định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính phải trên cơ sở các căn cứ sau đây:
a) Vi phạm nghiêm trọng được thực hiện do lỗi cố ý;
b) Vật, tiền, hàng hóa, phương tiện là tang vật trực tiếp của vi phạm hành chính hoặc được trực tiếp sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính, mà nếu không có vật, tiền, hàng hóa, phương tiện này, thì không thể thực hiện được hành vi vi phạm.
Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là ma túy, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, vật có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, bảo vật quốc gia, cổ vật, hàng lâm sản quý hiếm, vật thuộc loại cấm lưu hành, thì phải quy định tịch thu”.
Căn cứ quy định trên có thể xác định “tiền” là đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt “tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” phải thỏa mãn 2 điều kiện sau: (i) vi phạm đó là vi phạm nghiêm trọng được thực hiện do lỗi cố ý; (ii) tiền bị tịch thu phải là tang vật trực tiếp của vi phạm hành chính hoặc được trực tiếp sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hành chính, mà nếu không có tiền này thì không thể thực hiện được hành vi vi phạm.
Trong khi đó, theo quan điểm của chúng tôi thì “tiền” không phải là tang vật trực tiếp hoặc được trực tiếp sử dụng để thực hiện các hành vi “cung cấp địa điểm cho hoạt động mua dâm, bán dâm; dẫn dắt, dụ dỗ hoạt động mua dâm, bán dâm; che giấu, bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm; lôi kéo, ép buộc hoặc cưỡng bức người khác bán dâm; dùng các thủ đoạn khống chế, đe dọa người mua dâm, bán dâm để đòi tiền, cưỡng đoạt tài sản” bởi khi thực hiện các hành vi này các chủ thể vi phạm không cần sử dụng “tiền” vẫn có thể thực hiện được các hành vi trên, số tiền có được từ thực hiện các hành vi này không phải là tang vật, phương tiện để thực hiện vi phạm mà là kết quả người vi phạm có được từ thực hiện các vi phạm nói trên. Chúng tôi cho rằng số tiền người vi phạm có được trong trường hợp này thực ra là “số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” chứ không phải “tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”. Vì thế, sẽ phù hợp hơn nếu trong trường hợp này Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” thay vì quy định hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu số tiền do vi phạm hành chính mà có”. Đáng tiếc rằng, tuy Nghị định số 167/2013/NĐ-CP đã có quy định về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” đối với người có hành vi “cho người khác đăng ký cư trú vào chỗ ở của mình để vụ lợi hoặc trong thực tế người đăng ký cư trú không sinh sống tại chỗ ở đó” [13] nhưng đối với các vi phạm hành chính về mại dâm nói trên lại chưa được quy định do Chính phủ chưa nhận định đúng bản chất của vấn đề nên quy định thành hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu số tiền do vi phạm hành chính mà có”.
3. Giải pháp khắc phục
Để khắc phục các bất cập vừa nêu, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, mức phạt tiền áp dụng đối với các vi phạm hành chính về mại dâm còn quá thấp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm nên chưa đủ sức răn đe và ngăn chặn các vi phạm trong lĩnh vực này. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng cần phải tăng cường mức phạt để xử phạt thật nặng chủ thể vi phạm, ngược lại có quan điểm lại cho rằng mấu chốt không phải ở việc tăng mức phạt lên quá cao mà quan trọng là xác định mức phạt thật phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Theo quan điểm của chúng tôi, các nhà làm luật cần cân nhắc tăng mức phạt tiền đối với các vi phạm hành chính về mại dâm để răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm, tuy nhiên không được lạm dụng mà phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình vi phạm thực tế và có sự phân hóa trách nhiệm hành chính đối với các vi phạm cụ thể về mại dâm (như giá trị giao dịch mua bán dâm, số người tham gia mua bán dâm, số lần vi phạm…).
Hai là, để loại bỏ tình trạng các vi phạm hành chính có cùng bản chất giống nhau lại được quy định thành các vi phạm khác nhau với mức tiền phạt rất chênh lệch, Chính phủ cần tiến hành rà soát một cách kỹ lưỡng các vi phạm về “môi giới mại dâm” và “bảo kê mại dâm” bị xử phạt vi phạm hành chính trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP có sự trùng lắp về mặt nội hàm để bỏ đi các quy định không phù hợp. Đối với các vi phạm hành chính về môi giới mại dâm, do có sự trùng lắp với cả Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cần có sự thống nhất trong đường lối xử lý. Đối với các vi phạm về “bảo kê mại dâm”, theo quan điểm của chúng tôi cần bỏ đi quy định xử phạt đối với hành vi “bảo kê cho các hành vi mua dâm, bán dâm” tại điểm b khoản 2 Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, đối với các dạng vi phạm cụ thể của hành vi “bảo kê mại dâm” có thể giữ nguyên như hiện nay để thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hành chính đối với các vi phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau.
Ba là, để xóa bỏ sự chồng chéo, nhập nhằng trong đường lối xử lý hành vi “môi giới mại dâm” và hành vi “cưỡng đoạt tài sản đối với người mua dâm, bán dâm” giữa Nghị định số 167/2013/NĐ-CP và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đòi hỏi Quốc hội và Chính phủ cần có quan điểm thống nhất để xác định rõ ranh giới giữa xử lý hình sự và xử phạt hành chính đối với các hành vi này. Trong bối cảnh Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực pháp luật thì Chính phủ cần tiến hành sửa đổi Nghị định số 167/2013/NĐ-CP nhằm phân định rõ ràng giữa xử phạt hành chính và xử lý hình sự. Minh định giữa xử phạt hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi “môi giới mại dâm” và hành vi “cưỡng đoạt tài sản đối với người mua dâm, bán dâm” không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh, phòng chống các vi phạm này mà còn hạn chế tình trạng nhập nhằng “hành chính hóa các vi phạm hình sự” hoặc “hình sự hóa các vi phạm hành chính”. Theo quan điểm của chúng tôi, để thể hiện tinh thần đấu tranh quyết liệt đối với các vi phạm về mại dâm cần thống nhất xử lý hành vi “môi giới mại dâm” và hành vi “cưỡng đoạt tài sản đối với người mua dâm, bán dâm” dưới góc độ hình sự để tăng tính răn đe, ngăn chặn vi phạm. Vì thế, Chính phủ cần loại bỏ các quy định về xử phạt đối với các hành vi liên quan đến “môi giới mại dâm” và “cưỡng đoạt tài sản đối với người mua dâm, bán dâm” trong Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để vừa giải quyết các bất cập nội tại trong chính Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, vừa xóa bỏ được sự chồng chéo với Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bốn là, công thức “tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất” là một quy định rất tùy nghi và dễ tạo ra sự lạm quyền, tùy tiện. Do đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cần quy định rõ ràng các tiêu chí, điều kiện cụ thể để áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.[14] Trên cơ sở đó, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP sẽ quy định cụ thể các tiêu chí để người có thẩm quyền có thể áp dụng hình thức xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài thực hiện hành vi bán dâm tại Việt Nam.
Năm là, khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải “bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật”. Do vậy, cần bãi bỏ quy định về hình thức xử phạt bổ sung “tịch thu số tiền do vi phạm hành chính mà có” đối với các vi phạm hành chính về mại dâm tại điểm a khoản 6 Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP và thay vào đó là bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” để việc áp dụng chế tài phù hợp với một trong những nguyên tắc của việc xử phạt vi phạm hành chính đó là “Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng”[15].
CHÚ THÍCH
[1] Báo Người Lao động, “Mại dâm trá hình: Cứ phạt xong là tái phạm”, ngày 27/07/2018, truy cập ngày 12/01/2019.
[2] Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (tập 1), Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2015, tr. 192.
[3] Điều 23 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
[4] Kiến Tường, “Á hậu, diễn viên ở Sài Gòn bị phát hiện bán dâm nghìn USD”, truy cập ngày 18/3/2019.
[5] Điều 22 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định: “người có hành vi mua dâm chỉ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng”.
[6] Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh, “Điểm mặt những vụ mại dâm trá hình”, ngày 26/03/2017, truy cập ngày 12/1/2019.
[7] Khoản 7 Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003.
[8] Khoản 8 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003.
[9] Điểm b khoản 3 Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
[10] Khoản 3 Điều 23 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
[11] Cao Vũ Minh – Nguyễn Nhật Khanh, “Hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 09, 2018, tr.7.
[12] Khoản 1, 2, 3, điểm a khoản 6 Điều 24 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
[13] Điểm c khoản 5 Điều 8 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
[14] Cao Vũ Minh – Nguyễn Nhật Khanh, tlđd, tr. 9.
[15] Điểm c khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Tác giả: ThS. Nguyễn Nhật Khanh & ThS. Trần Quốc Minh – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2019 – 2019, Trang 27-38
Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời