Đề xuất bổ sung các nguyên lý quản lý nhà nước trong chương trình đào tạo môn học Luật Hành chính ở Việt Nam
TÓM TẮT
Quản lý nhà nước là một hoạt động có mục đích. Những mục đích, mục tiêu cơ bản định ra trước cho hoạt động quản lý và kết quả của việc đạt được mục đích, mục tiêu đó phản ánh hiệu quả của việc quản lý. Hiệu quả của quản lý vì vậy phải được tiến hành trên cơ sở những nguyên lý, nguyên tắc nhất định. Đặc biệt, khi các quy phạm pháp luật hành chính thực định vẫn còn chưa được pháp điển hóa tập trung – chỉ là tập hợp các văn bản về quản lý nhà nước, tồn tại dưới nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý không cao thì càng đòi hỏi phải nắm vững nguyên lý vận hành trong quản lý nhà nước. Đây có thể được xem là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của một nền hành chính và phần nào phản ánh thang đo về mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội của một quốc gia trong thời kỳ hội nhập. Bài viết bàn về các nguyên lý trong quản lý nhà nước thuộc môn học Luật hành chính.
Xem thêm:
- Giảng dạy học phần Luật Môi trường bằng phương pháp tình huống đáp ứng chuẩn đầu ra, qua thực tiễn tại trường Đại học Luật, Đại học Huế – ThS. Phan Vĩnh Tuấn Anh
- Sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực đối với các môn chuyên ngành luật – Kinh nghiệm áp dụng cho môn luật quốc tế – TS. Trần Thăng Long
- Ứng dụng kinh tế học pháp luật – nghiên cứu, giảng dạy Luật Cạnh tranh – TS. Phạm Trí Hùng
- Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
- Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
- Cân bằng yếu tố quản lý nhà nước và bảo đảm quyền lập hội của người dân trong Dự thảo Luật về Hội từ kinh nghiệm của Vương Quốc Anh – TS. Đặng Tất Dũng
- Thực tiễn ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính và giải pháp hoàn thiện – TS. Thái Thị Tuyết Dung& ThS Mai Thị Lâm & ThS. Trương Tư Phước
- Vai trò của quản lý nhà nước đối với giá đất trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam – ThS. Châu Hoàng Thân
- Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm: Nhìn từ khía cạnh quản lý nhà nước và quyền lợi người tiêu dùng – ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
- [PHÂN BIỆT] Hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động lập pháp và tư pháp? Nêu ví dụ? – Xóm Luật
TỪ KHÓA: Quản lý nhà nước,
1. Tại sao cần đặt ra vấn đề nguyên lý trong quản lý nhà nước
Từ trước đến nay, trong các giáo trình, sách về Luật hành chính, một trong những nội dung có tính chất tiền đề phục vụ cho việc nghiên cứu ngành luật hành chính là “nguyên tắc trong quản lý nhà nước”. Nội dung này thường được bố trí thành một chương riêng trong môn học Luật hành chính.[1]
Nguyên tắc trước hết được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”.[2] Trong quản lý nhà nước, các nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho hoạt động quản lý nhà nước. Các nguyên tắc quản lý nhà nước được quy định trong Hiến pháp, luật, văn bản dưới luật. Trong đó, những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp được xem là nguyên tắc cơ bản nhất.
Việc nghiên cứu các nguyên tắc trong quản lý nhà nước là yêu cầu thiết yếu, bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước có khuôn khổ, có định hướng và có mục tiêu. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập cùng với tiến trình nâng cao hiệu quả của quản lý theo hướng kiến tạo, phục vụ thì ngoài các nguyên tắc được Nhà nước định sẵn, người nghiên cứu luật cần phải nắm được các nguyên lý vận hành của hoạt động này. Thực tế cho thấy nếu nguyên tắc là những định hướng của Đảng, của Nhà nước mang tính chỉ đạo nhằm tạo khuôn khổ cho hoạt động quản lý thì nguyên lý trong quản lý nhà nước chính là những quy luật có tính bản chất cần phải được vận dụng, phát huy trong hoạt động quản lý nhà nước. Đối với việc đào tạo sinh viên, học viên ngành luật, việc nắm bắt nguyên lý trong quản lý nhà nước có tác động trực tiếp đến quá trình nhận thức về bản chất của hoạt động quản lý và tư duy theo hướng xây dựng nền hành chính kiến tạo và phục vụ, phá dỡ các rào cản, tạo động lực để khuyến khích đầu tư, giải phóng các nguồn lực cho sự phát triển.
2. Nguyên lý vận hành của một nền hành chính tiên tiến
Dựa trên các tiêu chí đánh giá về mức độ hoàn thiện của nền hành chính từ các tổ chức quốc tế[3] và kinh nghiệm từ các nước có nền hành chính phát triển,[4] có thể định ra các nguyên lý vận hành của một nền hành chính tiên tiến như sau:
2.1. Tính hợp pháp và tính chính thức
“Hợp pháp” là phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Tính hợp pháp đòi hỏi phải tuân thủ Hiến pháp vì đó là cơ sở căn bản đầu tiên của hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Tuy nhiên, để bảo đảm hệ thống pháp luật được vận hành đồng bộ, thông suốt thì các chủ thể quản lý phải tuân thủ tất cả các các đạo luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Về mặt kỹ thuật, nền hành chính không thể vận hành đồng bộ, thông suốt nếu không xác định được hệ thống quy phạm pháp luật tạo ra ranh giới cho các hoạt động quản lý. Ngược lại, nếu hệ thống quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, không xác định rõ tính pháp lý thì bộ máy hành chính dù có tiến bộ đến đâu, các chủ thể quản lý dù có năng lực đến đâu cũng không thể vận hành một nền hành chính tối ưu và hiệu quả.
“Tính chính thức” ở đây có nghĩa là các quy định pháp luật phải hoàn chỉnh trong một chỉnh thể, một hệ thống chính thức, không thể có những “hướng dẫn ngoài quy định”, “hướng dẫn ngược lại với quy định”, “hướng dẫn phi chính thức”. Nếu không bảo đảm tính hợp pháp và tính chính thức thì đó chính là điều kiện thuận lợi cho tiêu cực và tham nhũng phát sinh. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn thực thi Hiến pháp và pháp luật nhưng không được tự tiện đặt thêm các quy định “mới” gây khó khăn cho chủ thể chịu sự quản lý.
Ví dụ: Thông tư của Bộ trưởng ban hành các thủ tục để đầu tư vào dự án có sử dụng đất. Trong khuôn khổ đó, các địa phương có thể có chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư nhưng không thể ban hành các quyết định với mục đích đặt ra “giấy phép con”, gây thêm thủ tục phiền hà cho các chủ đầu tư vào dự án có sử dụng đất.
2.2. Tính kiến tạo và hợp tác
Trong thời gian gần đây, thuật ngữ kiến tạo được dùng khá phổ biến trong quá trình quản lý nhà nước ở Việt Nam, mà tiên phong là Chính phủ.[5] Theo nghĩa đơn giản nhất, “kiến tạo” là “xây dựng nên”.[6] Nền hành chính kiến tạo là nền hành chính hướng đến sự kiến thiết và sáng tạo, lấy đó làm động lực cho sự phát triển. Trong khi đó “hợp tác” là “cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, một lĩnh vực nào đó, nhằm mục đích chung”.[7] Về mặt khoa học, kiến tạo và hợp tác đặt ra một số yêu cầu sau đây: (i) thay vì nhấn mạnh cách thức “quản lý” theo vị thế “bề trên” thì nền hành chính chuyển sang khuynh hướng chú trọng đến khơi thông tiềm năng phát triển với mục tiêu chung vì xã hội, vì cộng đồng; (ii) chú trọng cung ứng tốt hơn các dịch vụ công theo nhu cầu ngày càng cao của xã hội; (iii) tận dụng các nguồn lực của xã hội vì mục tiêu phát triển, phát huy các hình thức đầu tư công tư, cùng hợp tác để nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ.
Với yêu cầu nêu trên, ta thấy rằng phương pháp điều chỉnh[8] của ngành luật hành chính hiện nay không còn thuần túy là “mệnh lệnh – phục tùng” nữa. Thay vào đó, phương pháp điều chỉnh của ngành luật này nên có một số thay đổi nhất định cho phù hợp với tình hình mới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tính mệnh lệnh đơn phương trên cơ sở pháp luật. Mệnh lệnh này xuất phát từ quan hệ quyền uy giữa một bên có quyền nhân danh Nhà nước, căn cứ trên các quy định pháp luật để bắt buộc đối với bên còn lại. Đây là phương pháp có tính truyền thống và đã phát huy vai trò nhất định trong một thời gian dài, vẫn cần được tiếp tục duy trì nhằm đảm bảo trật tự quản lý. Tuy nhiên, trật tự ấy phải trong khuôn khổ pháp luật, “quyền uy” là trên cơ sở được nhà nước giao phó; “phục tùng” là trên cơ sở các quy định của pháp luật. Như vậy, không thể có chủ thể quản lý nào quyết định một vấn đề “cao hơn Hiến pháp và luật”. bên cạnh đó, cũng không thể xây dựng sự phục tùng dựa trên cơ chế “xin – cho” từ các đối tượng quản lý đối với các chủ thể chịu sự quản lý.
Thứ hai, tính hợp tác, hỗ trợ nhằm phục vụ cho mục tiêu chung của xã hội vì sự phát triển bền vững. Các cơ quan hành chính và các chủ thể quản lý, dựa vào thẩm quyền của mình trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình để đề ra các biện pháp quản lý thích hợp đối với từng đối tượng quản lý.
Trong định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường và thời kỳ toàn cầu hóa, các chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước phải đảm bảo việc quản lý vĩ mô. Một mặt, vẫn phải bảo đảm an ninh chính trị làm cơ sở cho hòa bình, ổn định làm cơ sở cho sự phát triển. Mặt khác, cần phải xây dựng cơ chế thông thoáng để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, chuyển từ đối tượng quản lý sang khách hàng. Trong các mối quan hệ (ví dụ như với các loại hình doanh nghiệp) cần có góc nhìn cởi mở, thân thiện, chuyển từ “đối tượng” thành “đối tác”, chuyển từ việc quản lý theo cơ chế hành chính với thủ tục rườm rà sang cách quản lý thông thoáng nhằm kêu gọi sự hợp tác vì sự phát triển chung mang tính bền vững.
2.3. Tính công bằng và dân chủ
Nguyên lý này có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” là một nguyên tắc hiến định nền tảng, là cơ sở để xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật tương ứng với các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước. Trong khi đó, tính công bằng và dân chủ của nền hành chính, tuy cũng thể hiện yếu tố “bình đẳng”, song thiên về kỹ thuật trong quá trình quản lý, nghĩa là các chủ thể quản lý phải tính toán các nhân tố tác động, ảnh hưởng, xây dựng các hệ thống tiêu chí để bảo đảm sự công bằng trong từng trường hợp cụ thể. Muốn thế, cần phải phát huy dân chủ để sự công bằng đó không phải là “suy nghĩ hay quyết định đơn phương” từ phía các chủ thể quản lý mà thể hiện nguyện vọng của đại đa số người dân trong xã hội. Khi tính công bằng và dân chủ được bảo đảm thì yếu tố “bình đẳng của mọi công dân” được ghi nhận trong Hiến pháp cũng sẽ được thực thi trong đời sống xã hội. Nói cách khác, trong quá trình quản lý, các chủ thể quản lý chỉ thực hiện những hạn chế về quyền và lợi ích khi pháp luật đã có quy định hoặc trong trường hợp cần bảo vệ các lợi ích chung khác lớn hơn được xác định bởi các nguyên tắc trong Hiến pháp và pháp luật. Công bằng ở đây được xác định trong 3 mối quan hệ sau đây:
+ Công bằng đối với các chủ thể có cùng điều kiện tương đồng, kể cả ở những thời điểm khác nhau. Ví dụ: công bằng trong bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân trong cùng một dự án, công bằng giữa người bị thu hồi đất trong dự án này với dự án khác.
+ Công bằng giữa các chủ thể với những điều kiện khác nhau, dưới góc độ khác nhau. Ví dụ: công bằng giữa chủ đầu tư và người dân bị thu hồi đất.
+ Công bằng giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích Nhân dân. Ví dụ: khi thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không chỉ tính đến các mục tiêu phát triển kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương mà phải chú ý đến chính sách an sinh cho người dân; cân nhắc giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, môi trường và bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
Một trong những yêu cầu để bảo đảm tính công bằng là phải bảo đảm tính dân chủ. Nói một cách đơn giản nhất “dân chủ” nghĩa là “dân là chủ”. Khi công bằng và dân chủ được bảo đảm thì các quy định, chính sách ban hành sẽ được sự đồng thuận cao, có giá trị thực hiện trên thực tế.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý bảo đảm công bằng và dân chủ, ta thấy nền hành chính nước ta còn thiếu các thiết chế bảo vệ quyền công dân. Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng quy định tại Chương II về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”, song các thiết chế thực thi các quyền này về phương diện quản lý nhà nước còn chưa hoàn chỉnh.
Tòa hành chính ở nước ta được pháp luật quy định từ năm 1996 theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Hiện nay, theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa hành chính là cơ quan hỗ trợ trong việc bảo vệ quyền công dân.[9] Tuy nhiên, ở Việt Nam, đối tượng xem xét của Tòa hành chính chỉ trong phạm vi quyết định cá biệt và hành vi hành chính nên có những giới hạn nhất định.[10]
2.4. Tính công khai và minh bạch
Công khai là để cho mọi người cùng biết, còn minh bạch là bảo đảm sự rõ ràng, hiểu thống nhất theo một cách nhất định. Hai tính chất này gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung và tương hỗ cho nhau, trong đó công khai là điều kiện tiền đề của minh bạch.
Công khai và minh bạch, ngoài việc bảo đảm tính tường minh cho quá trình thực hiện, còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống các cơ quan, đơn vị. Thông qua công khai, minh bạch mà ta có thể nhận ra được những thiếu sót, lỗ hổng trong các quy định. Chính vì lẽ đó, việc cải cách thủ tục hành chính quốc gia phải tiến hành đồng loạt giữa các bộ ngành và kết quả được đăng công khai trên trang thông tin điện tử của Chính phủ.[11]
Trong một nền hành chính, đặc biệt trong vấn đề quân sự và an ninh, tất yếu phải những quy định mật, tối mật, tuyệt mật. Tuy nhiên, các trường hợp này nên được xác định rõ trong các văn bản lập pháp về bí mật nhà nước[12] và các cơ quan hành chính nhà nước không được tự tiện mở rộng thêm “các trường hợp” bí mật.
Công khai, minh bạch là điều kiện tiên quyết để phòng, chống tham nhũng. Một khi các quy định đã được công khai và tường minh thì sẽ hạn chế được sự không rõ ràng, chưa thống nhất – điều kiện dẫn đến tiêu cực và tham nhũng phát sinh.
2.5. Tính vô tư và ngay thẳng
Vô tư là không thiên vị, ngay thẳng là bảo đảm đúng với quy định mà không “nể nang” bất kỳ chủ thể nào. Đây là yêu cầu đặt ra đối với quá trình quản lý mà trước hết ở các chủ thể thừa hành công vụ.
Trong quản lý nhà nước ở Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật là công cụ quan trọng hàng đầu, có tính tiên quyết. Nhà nước ta ban hành một hệ thống văn bản lớn để quy định và hướng dẫn thực hiện trong công tác quản lý. Ví dụ: tính đến tháng 4 năm 2017, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hơn 68 nghị định và 57 thông tư hướng dẫn thi hành.
Tuy vậy, trong đặc tính vốn có của mình, văn bản quy phạm pháp luật có xu hướng không dự liệu hết được các quy phạm xã hội phát sinh với thực tế quản lý rộng lớn, đa dạng và phức tạp. Điều này lại càng trở nên rõ ràng khi Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường và bước vào thời kỳ hội nhập với nhiều mối quan hệ xã hội đan xen, phức tạp cần được điều chỉnh. Chính vì vậy, yêu cầu về tính vô tư và ngay thẳng là thiết yếu để bảo đảm việc áp dụng dựa trên nguyên tắc của luật, đúng với tinh thần của nhà làm luật.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, có những vấn đề pháp luật chưa quy định chi tiết, nhưng cần thiết phải áp dụng thì các chủ thể quản lý phải vận dụng pháp luật. Trong quá trình vận dụng đó, cần phải viện dẫn được nguyên tắc trong quản lý nhà nước, lý lẽ của sự công bằng và sự cần thiết khách quan phải vận dụng pháp luật. Khi đó, tính vô tư và ngay thẳng là điều kiện thiết yếu, tiên quyết.
2.6. Tính hệ thống và kế thừa
Một nền hành chính tiến bộ đòi hỏi trật tự quản lý chặt chẽ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các chủ thể thừa hành. Tính hệ thống hiểu theo nghĩa tích cực sẽ làm cho cơ chế thông thoáng mà hiệu quả quản lý về mặt tổng thể cao, tránh cục bộ trong từng ngành, từng cấp. Để đạt được điều này, mục tiêu trong quản lý phải được đặt ra chặt chẽ và xây dựng các quy chế phối hợp rõ ràng. Mặt khác, hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động có mục tiêu, kế hoạch nên cần bảo đảm tính kế thừa. Nếu mỗi nhiệm kỳ mà lãnh đạo địa phương có những định hướng riêng, khác biệt, thay đổi hoàn toàn thì chắc chắn sẽ phát sinh vấn đề lãng phí. Quản lý trước hết cần phải nắm hiện trạng của đối tượng quản lý, xem xét các công cụ quản lý. Từ đó, sẽ có những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho thích hợp.
Ví dụ: trong những năm gần đây, Chính phủ Pháp vẫn còn gửi văn bản thông báo về những công trình hết hạn sử dụng ở Việt Nam.[13] Điều này không chỉ thể hiện trách nhiệm quản lý mà thông qua đó còn thể hiện nền hành chính Pháp có tính hệ thống và bảo đảm tính kế thừa trong quản lý.
2.7. Tính hiệu lực và hiệu quả
Theo nghĩa chung nhất, “hiệu lực” là “tác dụng thực tế, đúng như yêu cầu”[14]. Trong khi đó “hiệu quả” là “kết quả của việc làm mang lại”.[15] Để xác định hiệu lực, trước hết cần phải xác định thực trạng của đời sống xã hội và hiện trạng của các đối tượng cần có sự quản lý. Mặt khác, cần định rõ sự cần thiết và yêu cầu của việc điều chỉnh trong quá trình quản lý. Một quyết định hành chính không có hiệu lực là một quyết định không có giá trị, có thể là giá trị pháp lý hay giá trị thực tiễn. Trong khi đó, “hiệu quả” chính là sự đối chiếu giữa kết quả dự kiến và kết quả thực tế. Người ta chủ yếu đánh giá hiệu quả đối với một quyết định hành chính có hiệu lực, bởi vậy “tính hiệu lực” thường được xem xét trước “tính hiệu quả”. Hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính thể hiện ở những yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải xây dựng những bộ tiêu chí đánh giá trong các hoạt động, lĩnh vực quản lý phức tạp, cần có quá trình xem xét đánh giá hiệu lực trên thực tế, hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Ví dụ: cần có những bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả của chương trình cải cách giáo dục; bộ tiêu chí quản lý dự án có sử dụng đất… Sau khi thực hiện các chương trình, dự án cần phải có sự đánh giá độc lập, khách quan với các tiêu chí đã định sẵn.
Thứ hai, trong công tác quản lý, phải có cơ chế kiểm tra, giám sát rất chặt chẽ, trong suốt quá trình thực hiện và ngay cả sau khi dự án, chương trình đi vào hoạt động. Nếu quản lý mà thiếu quá trình kiểm tra, đánh giá thì xem như không đánh giá được hiệu lực thực tế và hiệu quả của việc thực thi. Điều này dẫn đến hệ lụy là các dự án, công trình tiếp theo cũng “dựa theo đó” và thực hiện cẩu thả, thiếu trách nhiệm.
Thứ ba, thông qua hệ thống các tiêu chí đặt ra từ trước và công tác kiểm tra, giám sát, phải có cơ chế truy cứu trách nhiệm của các chủ thể để xảy ra vi phạm liên quan đến tham nhũng, lãng phí, thiên vị, thiếu công bằng, gây chậm trễ… Muốn hoàn thiện cơ chế này phải cụ thể hóa đến mức có thể những hành vi vi phạm và các loại trách nhiệm tương thích. Mặt khác, cần phải cá nhân hóa trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi vi phạm. Trong xử lý, hạn chế tình trạng “chỉ đạo” tạm hoãn, “chỉ đạo” xem xét lại. Tất cả các hành vi vi phạm, nếu có, đều phải đặt dưới ánh sáng pháp luật và được xử lý nghiêm minh theo các quy định pháp luật.
2.8. Tính ổn định và bền vững
Trong thời kỳ hội nhập cũng như tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, yêu cầu về sự phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là yêu cầu có tính cấp thiết. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà ta bất chấp các vấn đề khác như an ninh trật tự, xã hội, môi trường.
Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, lợi ích và thiệt hại cần phải tính toán ở mức độ bền vững và phục vụ cho các mục tiêu phát triển lâu dài. Nếu nóng vội phát triển, thiếu cơ chế pháp lý và bảo đảm thực thi các quy định pháp luật nghiêm minh, nghiêm túc thì nền hành chính có thể góp phần cho sự phát triển trước mắt nhưng không có chỗ cho những định hướng lâu dài. Điều này đòi hỏi trong các quy hoạch, kế hoạch, cần phải đảm bảo cân bằng giữa các yếu tố an ninh, kinh tế, xã hội và môi trường cũng như cân bằng giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
2.9. Tính cập nhật và thích ứng
Theo các nhà khoa học, hiện nay chúng ta đang đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư. Theo đó, dựa trên kỷ nguyên máy tính và tự động hóa của cuộc cách mạng lần thứ ba, cuộc cách mạng lần thứ tư là hệ thống liên kết thế giới thực và ảo. Chẳng hạn khi robot và tự động hóa lên ngôi, hàng triệu người sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc biệt là những nhân công trong ngành vận tải, kế toán, môi giới bất động sản hay bảo hiểm. Mặt khác, xu hướng toàn cầu hóa làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn. Ngoài việc thông tin được lan truyền nhanh chóng, mức độ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau của các quốc gia về các phương diện như: văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị… cũng diễn ra mạnh mẽ hơn.
Để giải quyết được vấn đề trên, theo kiến nghị của các nhà kinh tế, Việt Nam phải khẩn trương xây dựng một số chính sách trọng tâm, trong đó phải: thiết lập hệ thống thông tin với cơ sở dữ liệu luôn cập nhật đầy đủ và đảm bảo luôn được công bố công khai về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế; về tất cả các kế hoạch, chương trình, dự án, hoạt động của nhà nước (trừ những chương trình, dự án bí mật quốc gia). Song song đó, các nhà lập pháp phải không ngừng thích nghi với môi trường mới với những biến đổi nhanh chóng và Chính phủ cần phải xây dựng một bộ máy quản lý “năng động” hơn.[16]
Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bao hàm các cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng tìm ẩn rủi ro, thách thức. Với sự phát triển vượt bậc của hệ thống công nghệ thông tin như đã nêu thì hệ thống quản lý phải tương thích. Hoạt động quản lý cần phải ứng dụng, vận dụng tối đa những tính năng của khoa học công nghệ bởi nếu công nghệ quản lý mà chậm hơn các công nghệ xã hội thì việc quản lý không hiệu quả, trở nên hình thức. Thay vào đó, các trang mạng xã hội và các công nghệ thông tin trở thành công cụ, phương tiện để một số chủ thể lợi dụng, nắm bắt, chi phối xã hội, gây mất ổn định xã hội mang tính dây chuyền. Chính vì vậy, để việc quản lý có hiệu quả, cần phải nắm bắt tường tận công nghệ thông tin, không chỉ để sử dụng mà còn là để phòng ngừa những rủi ro, tránh các nguy cơ tiềm ẩn.
3. Kết luận
Như vậy, thông qua các nguyên lý được đề xuất trong hoạt động quản lý nhà nước, có thể thấy pháp luật hành chính không chỉ quy định thẩm quyền quản lý nhà nước mà còn phải quy định giới hạn để hoạt động quản lý nhà nước phục vụ cho sự phát triển bền vững của xã hội. Người tiếp cận khoa học hành chính cần phải nắm vững những nguyên lý để một nền hành chính vận hành tích cực, hiệu quả, thúc đẩy phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế.
CHÚ THÍCH
[1]* PGS-TS, Phó Trưởng Khoa Luật, Trường Đại học Cần ThơNguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013, tr. 40 – 59.
[2] Trung tâm Từ điển học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2011.
[3] Vincent Ostrom and Elinor Ostrom, “Public Choice: A Different Approach to the Study of Public Administration”, Public Administration Review, Vol. 31, No. 2 (Mar. – Apr., 1971), pp. 203 – 216.
[4] Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Luật hành chính nước ngoài, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2011.
[5] Các bài phát biểu của Thủ tướng, “Chính phủ kiến tạo và hành động – Động lực mới cho phát triển”, Báo điện tử: Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, http://baochinhphu.vn/Cac-bai-phat-bieu-cua-Thu-tuong/Chinh-phu-kien-tao-va-hanh-dong-dong-luc-moi-cho-phat-trien/295394.vgp, truy cập ngày 15/5/2017.
[6] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội, năm 2011, tr. 673.
[7] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội, năm 2011, tr. 601.
[8] Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức tác động đến các quan hệ xã hội có cùng nhóm đối tượng điều chỉnh bằng công cụ pháp luật. Phương pháp điều chỉnh là yếu tố quan trọng để xác định ngành luật đó có phải là ngành luật độc lập hay không.
[9] Phan Trung Hiền: “Một số vấn đề nhằm thực thi các quy định về quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, số 3, 2016.
[10] Ở các nước tư sản, ngoại trừ phạm vi quyền con người, quyền công dân được hiến pháp quy định, các quyền khác liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội liên quan đến quá trình quản lý nhà nước mà người dân cho rằng họ bị xâm phạm thì đều có thể yêu cầu tòa hành chính giải quyết. Ví dụ: Tòa hành chính Pháp không chỉ thụ lý quyết định hành chính cá biệt mà tất cả các quyết định hành chính được ban hành vì mục tiêu thực hiện công quyền, kể cả văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành pháp, mà họ cho rằng xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Dẫn theo Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Luật hành chính nước ngoài, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2011, tr. 226 – 228.
[11] Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, http://csdl.thutuchanhchinh.vn/Pages/trang-chu.aspx, truy cập ngày 02/8/2016.
[12] Hiện nay, Việt Nam chưa ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước. Thay vào đó là Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000. Tuy nhiên, nội dung này còn được gián tiếp quy định trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
[13] Ví dụ: Trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm do Pháp xây dựng vào năm 1917, ban đầu mang tên là Collège de Can Tho. Vào năm 1987, Pháp đã gửi thông báo trường đã hết niên hạn sử dụng.
Xem Ca Linh, “Trường Châu Văn Liêm thoát… “án trảm””, Báo Người lao động, http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/can-tho-truong-chau-van-liem-thoat-an-tram-20150710082551046.htm, truy cập ngày 02/8/2016.
[14] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội, năm 2011, tr. 568.
[15] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội, năm 2011, tr. 568.
[16] Phát biểu của ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký – VINASME, Tạp chí Kinh tế, số 8, http://www.vinasme.com.vn/Cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-IV-va-van-de-dat-ra-doi-voi-chinh-sach-phat-trien-SMEs-Viet-Nam-0202-4745.html, truy cập ngày 13/02/2017.
- Tác giả: PGS.TS. Phan Trung Hiền
- Tạp chí Khoa học pháp lý số 08(111)/2017 – 2017, Trang 74-80
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời