Mục lục
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức
TÓM TẮT
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại là vấn đề liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở lĩnh vực nào, khiếu nại và giải quyết khiếu nại cũng đều quan trọng và cần phải được thực hiện một cách đúng đắn, nghiêm minh. Bài viết phân tích các quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
Xem thêm:
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai – ThS. Võ Phan Lê Nguyễn
- Cần bỏ quy định nhà nước thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế nhằm giảm thiểu khiếu nại – ThS. Võ Phan Lê Nguyễn
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định hành chính – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Từ thực tiễn giám sát giải quyết khiếu nại hành chính: kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám sát – ThS. Võ Phan Lê Nguyễn
- Cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm thực thi quyền khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở Việt Nam – TS. Phan Trung Hiền
- Luận bàn về trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm kỷ luật lao động – TS. Lê Ngọc Thạnh
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về chưa xử lý và miễn xử lý kỷ luật đối với công chức – TS. Cao Vũ Minh
- Chuẩn hóa đội ngũ công chức hộ tịch cấp xã: đòi hỏi của thực tiễn đổi mới công tác quản lý hộ tịch – TS. Lê Thị Mận & ThS. Nguyễn Quốc Khánh
- Bất cập trong quy trình thi tuyển công chức và hướng hoàn thiện – ThS. Trương Tư Phước
- Một số giải pháp về hoàn thiện quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm công chức – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp & ThS. Mai Thị Lâm
TỪ KHÓA: Khiếu nại, Kỷ luật, Công chức, Tạp chí Khoa học pháp lý
1. Khái quát về khiếu nại
Ngày nay, trên thế giới, khiếu nại là quyền cơ bản của con người, được các quốc gia ghi nhận và cam kết thực hiện. Ở Việt Nam, quyền khiếu nại cũng được ghi nhận từ khá sớm trong các triều đại phong kiến thông qua việc xác lập quy trình giải quyết khiếu nại để người dân có thể sử dụng quyền khiếu nại của mình.[1]
Khiếu nại là một công cụ pháp lý quan trọng không chỉ để bảo vệ quyền cơ bản mà còn để thực hiện quyền làm chủ của công dân. Do đó, về bản chất, khiếu nại là một loại “quyền kép”: (i) đó là quyền để bảo vệ quyền, là đảm bảo pháp lý cho mọi quyền và tự do cá nhân; (ii) đó là quyền để thực hiện sự kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước.[2]
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dù ở lĩnh vực nào, khiếu nại và giải quyết khiếu nại cũng đều quan trọng và cần phải được thực hiện một cách đúng đắn, nghiêm minh. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức chỉ là một phần nhỏ trong pháp luật Việt Nam về khiếu nại. Tuy nhiên, đây là vấn đề hết sức trọng tâm và việc giải quyết vấn đề này hết sức nhạy cảm. Công chức là những người có tri thức, có trình độ chuyên môn cao trong xã hội. Chính vì vậy, khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức cần phải được thực hiện đúng thẩm quyền do pháp luật quy định.
Về mặt lý luận, thẩm quyền là một hệ thống các yếu tố cấu thành bao gồm hai nhóm sau: (i) các quyền và nghĩa vụ chung để thực hiện các chức năng nhất định và; (ii) các quyền hạn cụ thể để thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung nói trên.[3] Với tư duy đó, có thể hiểu: thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức là phạm vi thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức được pháp luật quy định nhằm giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyết định kỷ luật công chức theo thủ tục hành chính.
Căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành thì việc phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức được thể hiện như sau:
– Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý công chức theo phân cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định kỷ luật do mình ban hành.
– Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức quản lý công chức có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp còn khiếu nại tiếp.
– Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.
Trong quá trình thực hiện pháp luật khiếu nại thì việc tuân thủ những quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đây cũng là vấn đề có tính pháp lý đầu tiên trong việc xác định cơ chế giải quyết khiếu nại. Việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức luôn là mối quan tâm đặc biệt của cả công chức bị kỷ luật lẫn người giải quyết khiếu nại. Nó vừa tạo điều kiện cho công chức bị kỷ luật biết được chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc của mình để khiếu nại đúng chỗ, vừa giúp cho chính chủ thể giải quyết khiếu nại nắm được trách nhiệm của mình trong việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của công chức liên quan đến quyết định kỷ luật.
Tuân thủ thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền khiếu nại của công chức, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức còn gặp nhiều vướng mắc về vấn đề thẩm quyền. Chỉ tính riêng tại TP. HCM, theo báo cáo của Thanh tra Sở Nội vụ: “trong năm qua số lượng đơn đã được giải quyết là 79 vụ trong đó tổng số vụ khiếu nại đã giải quyết trên tổng số vụ khiếu nại thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 42/44 đạt 99,55 %, khiếu nại đúng có 03 vụ chiếm 0,70%, khiếu nại sai 12 đơn chiếm 2,72%, khiếu nại có đúng có sai 29 vụ chiếm 66%, trong đó có 02 vụ vẫn còn tồn đọng”.[4]
2. Bất cập về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức
Khi xem xét các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức, có thể ghi nhận những bất cập sau:
Một là, theo quy định thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật công chức nhưng pháp luật chưa có sự hướng dẫn và giải thích rõ thế nào là người đứng đầu cơ quan, tổ chức ra quyết định kỷ luật.
Hiện nay, Luật Khiếu nại năm 2011 không định nghĩa và cũng không hướng dẫn một cách rõ ràng về thuật ngữ “người đứng đầu cơ quan, tổ chức” dẫn đến tình trạng mâu thuẫn trong cách hiểu và vận dụng quy định này trên thực tế. Sự tồn tại nhiều luồng quan điểm khác nhau về khái niệm này sẽ ảnh hưởng tới tính đúng dắn trong quá trình giải quyết khiếu nại, nhất là đối với một loại khiếu nại đặc thù là quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.[5]
Từ bất cập nêu trên, rất nhiều trường hợp công chức không gửi đơn đến đúng cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết vì chính bản thân họ cũng không biết thẩm quyền giải quyết thuộc ai. Ngược lại, một số trường hợp cơ quan, cá nhân có thẩm quyền biết vụ việc thuộc quyền giải quyết của mình nhưng vẫn không thụ lý giải quyết vì chưa nắm rõ quy định của pháp luật. Tình trạng chuyển đơn khiếu nại lòng vòng giữa các cơ quan nhà nước còn diễn ra khá phổ biến hay việc xác định không đúng thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai cũng diễn ra thường xuyên.[6]
Hai là, thẩm quyền của người giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai chưa quy định rõ ràng và có sự khác nhau giữa thẩm quyền của người giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai trong việc sửa đổi, bổ sung, thay thế quyết định kỷ luật là đối tượng khiếu nại.
Theo Điều 54 Luật Khiếu nại năm 2011, khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định kỷ luật công chức ra quyết định giải quyết khiếu nại thì trong quyết định giải quyết khiếu nại phải có nội dung “giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định kỷ luật bị khiếu nại”. Trong khi đó, theo Điều 56 Luật Khiếu nại năm 2011 về người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định kỷ luật công chức không quy định rõ là người có thẩm quyền có được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định kỷ luật bị khiếu nại hay không mà chỉ quy định chung chung. Luật Khiếu nại năm 2011 chỉ quy định trong quyết định giải quyết khiếu nại lần hai người có thẩm quyền phải kết luận về từng vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại của người bị kỷ luật và việc giải quyết của người giải quyết khiếu nại lần đầu.
Việc quy định như thế đã dẫn đến sự lúng túng trong việc ra quyết định của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thực tế chính quy định không rõ ràng đó đã làm cho người có thẩm quyền áp dụng không đúng, dẫn đến nhiều vụ việc tuy đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai những vẫn chưa thể kết thúc mà vẫn còn kéo dài phức tạp.
Ba là, quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức của Tổng Thanh tra Chính phủ trong Luật Khiếu nại năm 2011 chưa rõ ràng, có sự mâu thuẫn, chồng chéo.
Theo Luật Khiếu nại năm 2011 thì Tổng Thanh tra Chính phủ không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Quy định này vô hình trung lại mâu thuẫn với khoản 2 Điều 7 và Điều 23 Luật Khiếu nại năm 2011. Theo Nghị định số 50/2018/NĐ-CP ngày 09/04/2018 của Chính phủ thì Thanh tra Chính phủ là một cơ quan ngang Bộ. Vì vậy, Tổng Thanh tra Chính phủ là Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Về nguyên tắc, Tổng Thanh tra Chính phủ sẽ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại Điều 23 Luật Khiếu nại năm 2011. Có ý kiến cho rằng Điều 23 Luật Khiếu nại năm 2011 chỉ quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng mà không quy định cho “Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ”. Do đó, các tác giả này đề xuất cần bổ sung Điều 23 Luật Khiếu nại năm 2011 theo hướng “thẩm quyền của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ”.[7] Trái ngược với ý kiến này, tác giả cho rằng Luật Khiếu nại năm 2011 đã quy định rất rõ ràng về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Cụ thể, khoản 2 Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính”. Khoản 2 Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011 đã đưa ra quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ” được gọi chung là “Bộ trưởng”. Do đó, thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại Điều 23 Luật Khiếu nại năm 2011 đã bao gồm cả thẩm quyền của Tổng Thanh tra Chính phủ (Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ). Tuy nhiên, Điều 24 Luật Khiếu nại năm 2011 đã không quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Tổng Thanh tra Chính phủ.[8]
Khoản 3 Điều 51 Luật Khiếu nại năm 2011 lại quy định: “Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết”. Logic pháp lý cho phép ta kết luận rằng Tổng Thanh tra Chính phủ là Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Tổng Thanh tra Chính phủ phải có quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định kỷ luật công chức thì mới có “cái” để Bộ trưởng Bộ Nội vụ giải quyết khiếu nại lần hai.[9] Như vậy, Điều 23 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức của Tổng Thanh tra Chính phủ. Điều 24 Luật Khiếu nại năm 2011 lại phủ định thẩm quyền này. Tiếp đến, Điều 51 Luật Khiếu nại năm 2011 lại gián tiếp thừa nhận thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức của Tổng Thanh tra Chính phủ. Các quy định này rõ ràng chồng chéo, mâu thuẫn và gây nên sự khó khăn trong việc áp dụng pháp luật.
Bốn là, Luật Khiếu nại năm 2011 chưa có quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức giữ chức vụ Thứ trưởng.
Mặc dù Luật Khiếu nại năm 2011 đã quy định rất cụ thể về quyết định kỷ luật là đối tượng khiếu nại, thế nhưng, Luật Khiếu nại năm 2011 lại không đề cập phạm vi công chức có quyền khiếu nại khi bị kỷ luật. Như vậy, có thể hiểu mọi công chức khi bị kỷ luật đều có thể khiếu nại hay không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật Khiếu nại năm 2011 về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết. Vì thế, mặc dù Luật Khiếu nại năm 2011 không trực tiếp quy định phạm vi công chức có thể khiếu nại khi bị kỷ luật, nhưng thông qua quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại có thể nhận thấy công chức chỉ có thể khiếu nại quyết định kỷ luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trở xuống – tức công chức đó chỉ giữ chức vụ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống.[10] Dường như vì giới hạn phạm vi công chức được quyền khiếu nại quyết định kỷ luật mà khoản 3 Điều 57 Luật Khiếu nại năm 2011 mới quy định: “Trường hợp công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai theo quy định tại Điều 50 của Luật này mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính”.
Tuy nhiên, việc ban hành quyết định kỷ luật công chức ở trung ương không chỉ thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ mà còn có thể thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Theo Điều 5 Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ thì Thứ trưởng là công chức. Theo Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Điều 15 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP thì Thủ tướng Chính phủ có quyền bổ nhiệm Thứ trưởng, do đó, Thủ tướng Chính phủ có quyền xử lý kỷ luật Thứ trưởng. Nếu chiếu theo quy định tại khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 thì tất cả công chức khi bị kỷ luật đều có quyền khiếu nại nhưng quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lại gián tiếp giới hạn thành phần công chức có thể khiếu nại quyết định kỷ luật.[11] Trên thực tế, công chức giữ chức vụ Thứ trưởng nếu muốn khiếu nại đối với quyết định kỷ luật sẽ không thể xác định được người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.[12] Một khi không xác định được người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu thì đương nhiên không thể xác định được người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Năm là, pháp luật khiếu nại không quy định cho Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức là một hạn chế lớn.
Theo Luật Khiếu nại năm 2011, Thủ tướng Chính phủ không phải là một chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Việc không quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức cho Thủ tướng Chính phủ đã phần nào hạn chế quyền khiếu nại của công chức và là nguyên nhân chính của những hạn chế trong phân cấp thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 10/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 của Chính phủ quy định về cơ quan thuộc Chính phủ thì “người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm; chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của cơ quan thuộc Chính phủ trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật”. Như vậy, Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam… là người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ sẽ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Theo khoản 1 Điều 15 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 về xử lý kỷ luật đối với công chức thì “đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật”. Như vậy, việc xử lý kỷ luật Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Khi những công chức này khiếu nại quyết định kỷ luật thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Thủ tướng Chính phủ. Thế nhưng, theo Luật Khiếu nại năm 2011 thì Thủ tướng Chính phủ lại không phải là một cấp trực tiếp giải quyết khiếu nại.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những bất cập về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức, tác giả có một số đề xuất:
Một là, giải thích cặn kẽ, chi tiết Luật Khiếu nại năm 2011 là một trong những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức. Ngoài ra, Chính phủ cần khẩn trương xây dựng, ban hành văn bản dưới luật quy định chi tiết việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức.
Hai là, như đã trình bày, Luật Khiếu nại năm 2011 không quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức của Tổng thanh tra Chính phủ. Điều 24 Luật Khiếu nại năm 2011 chỉ quy định thẩm quyền của Tổng thanh tra Chính phủ trong việc kiểm tra, đôn đốc, kiến nghị người có thẩm quyền xem xét giải quyết khiếu nại theo quy định pháp luật. Như vậy, đây không phải là thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Tổng thanh tra Chính phủ. Do đó, đặt Điều 24 trong Mục 1 Chương III Luật Khiếu nại năm 2011 về “Thẩm quyền giải quyết khiếu nại” là hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc kỹ thuật lập pháp. Do đó, nhằm đáp ứng kỹ thuật lập pháp và đáp ứng thực tiễn giải quyết khiếu nại, cần quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Tổng thanh tra Chính phủ đối với quyết định kỷ luật công chức. Quy định này cũng sẽ khắc phục sự mâu thuẫn giữa Điều 23, Điều 24 và Điều 51 Luật Khiếu nại năm 2011 trong việc quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đối với quyết định kỷ luật công chức.
Ba là, nhằm bảo đảm tính thống nhất trong quy định về phạm vi công chức có quyền khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức, Luật Khiếu nại năm 2011 cần bỏ quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với từng trường hợp cụ thể mà thay vào đó là nguyên tắc: “người có quyết định kỷ luật là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu” và không giới hạn về phạm vi công chức có quyền khiếu nại khi bị kỷ luật.
Bốn là, để hạn chế tình trạng khiếu nại phức tạp, gay gắt, vượt cấp và kéo dài do chính sách, pháp luật trong một số lĩnh vực chưa đầy đủ, thiếu thống nhất,[13] pháp luật cần quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại cho Thủ tướng Chính phủ. Quy định Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức không chỉ tạo niềm tin cho công chức bị kỷ luật mà còn bảo đảm chất lượng, hiệu quả trong việc giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài.
CHÚ THÍCH
[1] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, năm 2004, tr. 401.
[2] Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013, tr. 671.
[3] Nguyễn Cửu Việt, “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8, 2005.
[4] Báo cáo số 12 về công tác thanh tra về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức tại TP. Hồ Chí Minh của Thanh tra Sở Nội vụ.
[5] Phan Lê Hoàng Toàn, Khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2013, tr. 57.
[6] Tô Tử Hạ, Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001, tr. 44.
[7] Lê Việt Sơn – Võ Tấn Đào, “Bất cập trong các quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Giám đốc sở và các cấp tương đương, Bộ trưởng theo Luật Khiếu nại năm 2011”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, 2017.
[8] Cao Vũ Minh, “Hoàn thiện các quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại”, Tạp chí Nội chính, số 47, 2017.
[9] Nguyễn Cửu Việt, “Các yếu tố cấu thành và tính hệ thống của thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9, 2005.
[10] Khoản 9 Điều 34 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức, đình chỉ công tác, khen thưởng, kỷ luật người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức, đơn vị trực thuộc”. Theo Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quang ngang Bộ thì “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng cục trưởng, Cục trưởng, Vụ trưởng”. Vì vậy, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền xử lý kỷ luật Tổng cục trưởng, Cục trưởng, Vụ trưởng.
[11] Cao Vũ Minh, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xử lý kỷ luật công chức, Nxb. Thanh Niên, 2019, tr. 151.
[12] Báo Dân trí, “Thủ tướng kỷ luật Thứ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông vì vụ AVG”, ngày 10/9/2018, truy cập ngày 10/12/2018.
[13] Lê Như Thanh, “Về kỷ luật hành chính đối với cán bộ, công chức”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 201, 2012.
- Tác giả: ThS. Phan Lê Hoàng Toàn
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2019 – 2019, Trang 18-26
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời