Mục lục
Tính thống nhất của Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam
TÓM TẮT
Bài viết phân tích, đánh giá về sự thống nhất của Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chỉ ra một số hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục.
Xem thêm bài viết về “Hệ thống pháp luật”
- Cấu trúc của hệ thống pháp luật thực định là gì? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hệ thống pháp luật là gì? Phân tích khái niệm hệ thống pháp luật? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
1. Khái quát về tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch”. Cụ thể hóa nội dung này, khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải “bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật”. Đây là một trong những nguyên tắc cốt lõi cần phải tuân thủ trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hướng đến xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và thống nhất.
Theo “Từ điển Từ và ngữ Việt Nam” thì “thống nhất” (thống: hợp thành, nhất: một) là “hợp thành một khối, gắn bó chặt chẽ với nhau, không chia cắt”.[1] “Từ điển tiếng Việt phổ thông” của Viện Ngôn ngữ học thì giải thích “thống nhất là làm cho khớp, cho phù hợp, không mâu thuẫn nhau”.[2] Như vậy, có thể hiểu tính thống nhất của hệ thống pháp luật là sự đồng bộ, tương thích giữa các quy định của pháp luật, không có sự mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
Tính thống nhất của hệ thống pháp luật phải được xem xét trên cả hai phương diện hình thức và nội dung. Về mặt hình thức, tính thống nhất thể hiện qua cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của các quy phạm pháp luật. Về mặt nội dung, tính thống nhất đòi hỏi pháp luật phải có tính nhất quán. Điều này có nghĩa các văn bản quy phạm pháp luật trong cùng một lĩnh vực hoặc trong những lĩnh vực khác nhau phải tạo ra sự nhất quán trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định, hạn chế tình trạng các văn bản quy định khác nhau về cùng một vấn đề.
Khi xem xét tính thống nhất cần đặt văn bản quy phạm pháp luật trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống pháp luật bởi pháp luật Việt Nam có thể được chia thành các ngành luật khác nhau nhưng trên thực tế, xã hội là tổng hòa các mối quan hệ. Do đó, giữa các quy phạm pháp luật luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, dù thuộc về các ngành luật khác nhau. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay trong bản thân hệ thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Nếu hệ thống pháp luật không thống nhất, giữa các quy phạm pháp luật chứa đựng sự bất cập, mâu thuẫn thì hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả.[3]
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục được thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau trong đó có hoạt động ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh hoạt động giáo dục. Xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh và thống nhất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Hiện nay, các quy định pháp luật trong lĩnh vực giáo dục được quy định cụ thể tại Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) (sau đây gọi tắt là “Luật Giáo dục”) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục trên thực tế. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có yêu cầu đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy định của pháp luật trong lĩnh vực giáo dục đang tỏ ra “đuối sức” trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này. Một số quy định pháp luật trong Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa bảo đảm được sự thống nhất với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật. Do vậy, đặt ra yêu cầu cần phải có những giải pháp hoàn thiện để bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật quy định về giáo dục và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
2. Một số điểm chưa thống nhất của Luật Giáo dục với các văn bản pháp luật khác và kiến nghị hoàn thiện
Thứ nhất, quy định về ưu đãi thuế khi đầu tư cho giáo dục
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, các văn bản pháp luật đã có quy định về những ưu đãi đối với hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nhằm huy động sự đóng góp của xã hội vào việc phát triển nền giáo dục nước nhà.
Điều 13 Luật Giáo dục quy định: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư”. Điểm i khoản 1 Điều 16 Luật Đầu tư năm 2014 cũng quy định “Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp” là những ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Các quy định này là hoàn toàn phù hợp với chính sách khuyến khích đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên, giữa các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư cho giáo dục lại chưa thống nhất với nhau, điều này vô tình làm giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực này, cụ thể như sau:
Một là, về hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư
Khoản 2 Điều 104 Luật Giáo dục quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục như sau: “Các khoản đầu tư, đóng góp, tài trợ của doanh nghiệp cho giáo dục và các chi phí của doanh nghiệp để mở trường, lớp đào tạo tại doanh nghiệp, phối hợp đào tạo với cơ sở giáo dục, cử người đi đào tạo, tiếp thu công nghệ mới phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp là các khoản chi phí hợp lý, được trừ khi tính thu nhập chịu thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp”. Mặc dù không quy định một cách minh thị là hình thức ưu đãi đầu tư nhưng từ điều khoản trên có thể suy luận rằng Luật Giáo dục quy định “các khoản đầu tư của doanh nghiệp cho giáo dục là các khoản chi phí hợp lý, được trừ khi tính thu nhập chịu thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp” là một hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư.
Trong khi đó, khoản 1 Điều 15 Luật Đầu tư năm 2014 quy định nhà đầu tư thực hiện đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có thể được áp dụng 03 hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư sau:
(i) Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp;
(ii) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư;
(iii) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất.
Đối chiếu các quy định trên có thể thấy rằng Luật Giáo dục và Luật Đầu tư năm 2014 đã không có sự thống nhất, thậm chí là phủ định lẫn nhau khi quy định về hình thức áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục, trong khi Luật Giáo dục quy định “các khoản đầu tư của doanh nghiệp cho giáo dục là các khoản chi phí hợp lý, được trừ khi tính thu nhập chịu thuế theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp” thì Luật Đầu tư năm 2014 lại quy định “Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp”. Vậy câu hỏi đặt ra là khi áp dụng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục thì sẽ ưu tiên áp dụng quy định của Luật Giáo dục hay Luật Đầu tư năm 2014? Để trả lời câu hỏi này là không hề đơn giản bởi pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể để xác định giá trị áp dụng của hai đạo luật trong trường hợp trên. Luật Giáo dục hiện hành thì không có bất cứ quy định nào xác định nguyên tắc áp dụng Luật, dẫn chiếu qua Luật Đầu tư năm 2014 thì có quy định về nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư, các luật có liên quan và điều ước quốc tế tại Điều 4. Thế nhưng Luật Đầu tư năm 2014 cũng chỉ quy định nguyên tắc ưu tiên áp dụng Luật Đầu tư trong trường hợp có sự khác nhau với các luật khác “về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư”[4] chứ không có nội dung “ưu đãi đầu tư”.
Hai là, về các khoản chi phí hợp lý được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Như đã trình bày, khoản 2 Điều 104 Luật Giáo dục quy định các khoản chi cho giáo dục được coi là chi phí hợp lý được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp gồm: “Các khoản đầu tư, đóng góp, tài trợ của doanh nghiệp cho giáo dục và các chi phí của doanh nghiệp để mở trường, lớp đào tạo tại doanh nghiệp, phối hợp đào tạo với cơ sở giáo dục, cử người đi đào tạo, tiếp thu công nghệ mới phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp”. Trong khi đó, Điều 9 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) thì quy định: “chỉ có khoản chi liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; khoản chi cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp; khoản chi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật mới được tính là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp”. Với quy định này, có thể thấy, trừ các khoản chi cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp, các khoản chi khác như như chi cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học sẽ không được tính là chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy, quy định trong Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) đã “phủ định” Điều 104 Luật Giáo dục bởi trên thực tế có thể khẳng định chắc chắn rằng, việc tính chi phí hợp lý được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản đầu tư cho giáo dục hoàn toàn chỉ áp dụng theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013).
Ba là, quy định về ưu đãi thuế thu nhập cá nhân
Bên cạnh ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp đầu tư cho giáo dục, Luật Giáo dục cũng quy định ưu đãi về thuế cho các cá nhân đầu tư cho giáo dục tại khoản 3 Điều 104 Luật Giáo dục như sau: “Các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân cho giáo dục được xem xét để miễn, giảm thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên, đối chiếu với các quy định trong Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014) về các trường hợp được miễn thuế (Điều 4), giảm thuế (Điều 5) thì không thấy quy định các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân cho giáo dục được xem xét để miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân. Điều này cho thấy sự không thống nhất giữa Luật Giáo dục với Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014) khi quy định về các ưu đãi thuế cho cá nhân đầu tư vào giáo dục. Bất cập này ít nhiều làm giảm sức hút đối với các cá nhân có khả năng tài chính tiến hành đóng góp, tài trợ cho giáo dục. Trong khi các khoản đóng góp của cá nhân cho hoạt động từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú[5] thì các khoản đóng góp, tài trợ cho giáo dục rất được Luật Giáo dục khuyến khích vừa không được miễn, giảm thuế lại vừa không được tính giảm trừ vào thu nhập trước khi tính thuế thu nhập của cá nhân. Ngoài ra, Luật Giáo dục sử dụng cụm từ “thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao” không còn phù hợp bởi hiện nay sắc thuế nay đã đổi tên thành “thuế thu nhập cá nhân” và được điều chỉnh bởi Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014).
Để khắc phục các bất cập trên, nhà làm luật cần tiến hành rà soát lại các quy định về ưu đãi thuế đối với hoạt động đầu tư cho giáo dục trong Luật Giáo dục, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013), Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014) để loại trừ các quy định thiếu thống nhất đã nêu. Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục cần tiến hành bổ sung nguyên tắc áp dụng pháp luật trong Luật Giáo dục để giải quyết các điểm khác biệt về những vấn đề có liên quan đến giáo dục với các đạo luật khác để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật về giáo dục.
Thứ hai, quy định về tên gọi của các cơ sở giáo dục
Điều 63 Luật Giáo dục quy định về trường, lớp dành cho đối tượng đặc biệt là người tàn tật, khuyết tật như sau:
“1. Nhà nước thành lập và khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật nhằm giúp các đối tượng này phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, hòa nhập với cộng đồng.
- Nhà nước ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách cho các trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật do Nhà nước thành lập; có chính sách ưu đãi đối với các trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật do tổ chức, cá nhân thành lập.”
Quy định này là rất cần thiết vì nó thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với những cá nhân có khiếm khuyết về mặt cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện quyền học tập như những cá nhân khác. Nhà nước cũng đã ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010 để hình thành khung pháp lý bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng đặc biệt này. Theo khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010 giải thích: “người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
Ngày 25/12/2001, Quốc hội khóa X ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 thì từ “tàn tật” đã được thay thế bằng từ “khuyết tật”. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội khóa XII ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010 thay thế Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Những thay đổi này không đơn thuần là sự thay đổi về mặt câu chữ, mà đã thể hiện sự thay đổi phần nào trong nhận thức của Nhà nước và xã hội về vai trò của người khuyết tật trong đời sống xã hội. Do đó, để đảm bảo tính chính xác về mặt thuật ngữ cũng như phù hợp với quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010, cần bỏ cụm từ “người tàn tật” tại Điều 63 cũng như các điều luật khác có đề cập trong Luật Giáo dục[6] và chỉ giữ lại thuật ngữ “người khuyết tật”.
Thứ ba, quy định về thanh tra giáo dục
Hiện nay ở nước ta, quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục được quy định tại Luật Thanh tra năm 2010 và Luật Giáo dục. Trong mối tương quan này thì Luật Thanh tra năm 2010 là luật chung còn Luật Giáo dục là luật chuyên ngành. Do đó, về nguyên tắc, Luật Giáo dục không được trái với luật chung là Luật Thanh tra năm 2010. Tuy nhiên, Luật Giáo dục vẫn tồn tại rất nhiều các quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra mâu thuẫn với Luật Thanh tra năm 2010, cụ thể như sau:
Một là, về loại hình thanh tra
Điều 111 Luật Giáo dục quy định: “Thanh tra chuyên ngành về giáo dục có những nhiệm vụ sau đây: thanh tra việc thực hiện chính sách và pháp luật về giáo dục; thanh tra việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục”. Theo quy định trên có thể thấy Luật Giáo dục quy định hoạt động thanh tra giáo dục chỉ được tiến hành với một loại hình duy nhất là hoạt động thanh tra chuyên ngành. Trong khi đó, theo Luật Thanh tra năm 2010 thì hoạt động thanh tra bao gồm hai loại hoạt động thanh tra là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra hành chính là “hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao”[7] còn thanh tra chuyên ngành là “hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”.[8] Như vậy quy định về hoạt động thanh tra giáo dục trong Luật Giáo dục đã không thống nhất với Luật Thanh tra năm 2010.
Không những vậy, mặc dù quy định hoạt động thanh tra giáo dục chỉ được tiến hành với một loại hình duy nhất là hoạt động thanh tra chuyên ngành nhưng quy định về nhiệm vụ của thanh tra chuyên ngành về giáo dục tại Điều 111 Luật Giáo dục lại không nhất quán với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của hoạt động thanh tra trong Luật Thanh tra năm 2010. Cụ thể, theo Điều 111 Luật Giáo dục thì thanh tra chuyên ngành về giáo dục có nhiệm vụ “thanh tra việc thực hiện chính sách và pháp luật về giáo dục”, trong khi đó nhiệm vụ này về bản chất là nội dung của hoạt động thanh tra hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 đã trình bày ở trên. Chính sự lẫn lộn này dẫn đến thực tế các chủ thể có thẩm quyền vẫn đồng thời tiến hành cả hoạt động thanh tra chuyên ngành lẫn thanh tra hành chính về giáo dục. Đơn cử, từ ngày 01/7/2011 đến 30/6/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành 86 cuộc thanh tra chuyên ngành và tiến hành 32 cuộc thanh tra hành chính (26 cuộc thanh tra theo kế hoạch, 6 cuộc thanh tra đột xuất).[9] Vì thế, để đảm bảo tính hợp pháp của các cuộc thanh tra về giáo dục thì cần sửa đổi Luật Giáo dục theo hướng quy định “Hoạt động thanh tra giáo dục bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về giáo dục”.
Hai là, về thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra
Điều 113 Luật Giáo dục quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra giáo dục như sau:
“1. Các cơ quan thanh tra giáo dục gồm:
- a) Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- b) Thanh tra sở giáo dục và đào tạo.
- Hoạt động thanh tra giáo dục được thực hiện theo quy định của Luật thanh tra.
Hoạt động thanh tra giáo dục ở cấp huyện do Trưởng phòng giáo dục và đào tạo trực tiếp phụ trách theo sự chỉ đạo nghiệp vụ của thanh tra sở giáo dục và đào tạo.
Hoạt động thanh tra giáo dục trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học do thủ trưởng cơ sở trực tiếp phụ trách theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan”.
Dựa vào quy định trên có thể thấy “Hoạt động thanh tra giáo dục được thực hiện theo quy định của Luật Thanh tra”, vì thế các quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục phải thống nhất với đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động thanh tra là Luật Thanh tra năm 2010. Tuy nhiên, so sánh quy định về thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra thì chưa có sự thống nhất giữa Luật Giáo dục và Luật Thanh tra năm 2010. Khoản 2 Điều 113 Luật Giáo dục quy định “Hoạt động thanh tra giáo dục ở cấp huyện do Trưởng phòng giáo dục và đào tạo trực tiếp phụ trách theo sự chỉ đạo nghiệp vụ của thanh tra sở giáo dục và đào tạo”, trong khi đó Luật Thanh tra năm 2010 lại không trao cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quyền thanh tra. Thậm chí, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 của Chính phủ về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng quy định rõ Phòng Giáo dục và đào tạo không có chức năng thanh tra. Như vậy, Luật Giáo dục trao quyền cho Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo được quyền tiến hành hoạt động thanh tra giáo dục là một quy định không phù hợp với Luật Thanh tra năm 2010. Do đó, cần bãi bỏ quy định “hoạt động thanh tra giáo dục ở cấp huyện do Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo trực tiếp phụ trách theo sự chỉ đạo nghiệp vụ của thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo” được nêu tại Điều 113 Luật Giáo dục.
Thứ tư, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
Điều 118 Luật Giáo dục quy định các hành vi vi phạm trong lĩnh vực giáo dục thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, Chính phủ được giao nhiệm vụ quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Hiện nay, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục được quy định tại Nghị định số 138/2013/NĐ-CP ngày 22/10/2013 của Chính phủ. Sự ra đời của văn bản này đã có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh, phòng chống các vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, so sánh các quy định trong Luật Giáo dục với Nghị định số 138/2013/NĐ-CP thì vẫn còn tồn tại một số điểm chưa thống nhất về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi người học không được làm.
Điều 88 Luật Giáo dục quy định người học không được có các hành vi sau:
“1. Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể nhà giáo, cán bộ, nhân viên của cơ sở giáo dục và người học khác.
2. Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử, tuyển sinh.
3. Hút thuốc, uống rượu, bia trong giờ học; gây rối an ninh, trật tự trong cơ sở giáo dục và nơi công cộng.”
Tra cứu Nghị định số 138/2013/NĐ-CP thì chưa có quy định đầy đủ về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi người học không được làm nói trên. Đối với hành vi “xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể nhà giáo, cán bộ, nhân viên của cơ sở giáo dục và người học khác” thì Nghị định số 138/2013/NĐ-CP đã quy định việc xử phạt tại Điều 19 và Điều 21, theo đó người nào có các hành vi nói trên thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.[10] Đối với hành vi “gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử, tuyển sinh” thì Nghị định số 138/2013/NĐ-CP đã cụ thể hóa thành các vi phạm về quy chế thi tại khoản 3 Điều 13 với mức phạt thấp nhất là 1.000.000 đồng và cao nhất là 10.000.000 đồng.
Tuy nhiên, đối với hành vi “hút thuốc, uống rượu, bia trong giờ học; gây rối an ninh, trật tự trong cơ sở giáo dục và nơi công cộng” thì Nghị định số 138/2013/NĐ-CP lại chưa quy định đầy đủ chế tài xử phạt. Tra cứu toàn bộ nội dung Nghị định số 138/2013/NĐ-CP thì không tìm thấy bất cứ quy định nào xử phạt đối với hành vi “hút thuốc, uống rượu, bia trong giờ học, điều này chắc chắn sẽ gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền khi xử phạt vi phạm này trong thực tế. Đối với hành vi “gây rối an ninh, trật tự trong cơ sở giáo dục và nơi công cộng” thì Nghị định số 138/2013/NĐ-CP lại quy định không đầy đủ, cụ thể khoản 1 Điều 13 Nghị định này quy định phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi gây rối hoặc đe dọa dùng vũ lực ngăn cản người dự thi và người tổ chức thi, thanh tra thi, coi thi, chấm thi, phục vụ thi. So sánh về nội hàm pháp lý có thể thấy hành vi “gây rối an ninh, trật tự trong cơ sở giáo dục và nơi công cộng” có nội hàm rộng hơn rất nhiều so với hành vi “gây rối hoặc đe dọa dùng vũ lực ngăn cản người dự thi và người tổ chức thi, thanh tra thi, coi thi, chấm thi, phục vụ thi”. Do đó, khi phát sinh những hành vi khác có tính chất “gây rối an ninh, trật tự trong cơ sở giáo dục và nơi công cộng” mà không phải là hành vi “gây rối hoặc đe dọa dùng vũ lực ngăn cản người dự thi và người tổ chức thi, thanh tra thi, coi thi, chấm thi, phục vụ thi” thì chủ thể có thẩm quyền không thể xử phạt vì không có chế tài xử phạt, trong khi rõ ràng các vi phạm này phải bị xử phạt vì đây là các hành vi Luật Giáo dục quy định người học không được làm. Vì vậy, cần xem xét bổ sung chế tài đối với hành vi “hút thuốc, uống rượu, bia trong giờ học; gây rối an ninh, trật tự trong cơ sở giáo dục và nơi công cộng” để tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt các hành vi này trong thực tế, từ đó góp phần đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa các vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Việc hoàn thiện các quy định của Luật Giáo dục có ý nghĩa rất lớn trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục ở nước ta. Tuy nhiên, như đã trình bày, các quy định của Luật Giáo dục hiện hành vẫn còn tồn tại nhiều điểm chưa thống nhất với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Với những góp ý mang tính xây dựng đã phân tích trong bài viết này, tác giả hy vọng các nhà làm luật sẽ tiếp thu và chỉnh sửa các quy định của Luật Giáo dục cho phù hợp với đòi hỏi của quá trình lập pháp cũng như đáp ứng nhu cầu của thực tiễn để pháp luật thực sự trở thành công cụ hữu hiệu điều chỉnh hoạt động giáo dục trong thực tế./.
Xem thêm bài viết về “Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi bổ sung 2009)”
- Tổng quan về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) – GS.TS. Mai Hồng Quỳ
- Luận cứ để xây dựng nguyên tắc áp dụng pháp luật trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục – TS. Cao Vũ Minh
- Bàn về mục tiêu giáo dục – TS. Đỗ Minh Khôi
- Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và quyền được học tập trong môi trường an toàn – TS. Ngô Hữu Phước
- Chính sách tiền lương của nhà giáo trong Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục – TS. Lê Thị Thúy Hương
CHÚ THÍCH
[1] Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 1515.
[2] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 877.
[3] Cao Vũ Minh, “Tính thống nhất của Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Tổng kết 6 năm thi hành Luật Thanh tra do Thanh tra Bộ Giáo dục và đào tạo – Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh tổ chức tháng 7/2017, tr. 57.
[4] Khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư năm 2014.
[5] Điều 20 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014).
[6] Điều 10, khoản 2 Điều 26, Điều 63, điểm a khoản 1 Điều 69, khoản 1 Điều 82, khoản 1, 2 Điều 89 Luật Giáo dục.
[7] Khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
[8] Khoản 3 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
[9] Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo, Báo cáo tổng kết 06 năm thi hành Luật Thanh tra, Tài liệu Hội nghị tổng kết 06 năm thi hành Luật Thanh tra ngày 11/08/2017 tại Thanh Hóa.
[10] Khoản 2 Điều 19, khoản 2 Điều 21 Nghị định số 138/2013/NĐ-CP.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Nhật Khanh
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(114)/2018 – 2018, Trang 66-73
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời