Tổng quan những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020
Tác giả: Nguyễn Minh Hằng [1] & Nguyễn Chí Hiếu [2]
TÓM TẮT
Luật doanh nghiệp (LDN) năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những tác động tích cực trong việc tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, thúc đẩy thành lập, phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp (DN). Với tầm quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, LDN đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế và sự bình ổn xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực, một số nội dung của LDN năm 2014 qua hơn 5 năm triển khai thực hiện không còn phù hợp trong hoàn cảnh mới, tạo gánh nặng chi phí, lãng phí thời gian cho DN; một số nội dung cần được sửa đổi để phù hợp với Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 và các luật chuyên ngành có liên quan mới ban hành. Trước yêu cầu nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, phù hợp và bắt kịp với xu hướng phát triển chung của thế giới, nâng cao chất lượng tổ chức quản trị DN đạt chuẩn mực của thông lệ tại khu vực và quốc tế đặt trong chiến lược phát triển và hoàn thiện pháp luật Việt Nam, ngày 17 tháng 6 năm 2020 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 đã thông qua LDN năm 2020[3]. Bài viết khái quát về cơ sở xây dựng và ban hành LDN năm 2020 và những điểm nhấn về sự kế thừa, phát triển qua các quy định mới, quy định được sửa đổi, bổ sung trong LDN năm 2020[4].
1. Cơ sở ban hành Luật doanh nghiệp năm 2020
Sau hơn 5 năm 6 tháng, LDN năm 20145 tổ chức thi hành, bên cạnh những ưu điểm được đánh giá qua thực tiễn, LDN năm 2014 đã bộc lộ những vướng mắc cần khắc phục trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế, xã hội. Việc ban hành LDN năm 2020 xuất phát từ thực tế:
Một là, quá trình khởi sự kinh doanh và gia nhập thị trường với sự điều chỉnh của LDN năm 2014 Việt Nam hiện đang xếp hạng ở mức thấp so với một số quốc gia trong khu vực và thế giới (hạng 125/190), bao gồm 08 thủ tục và tổng thời gian thực hiện khoảng 17 ngày. Trong đó, một số thủ tục hành chính không còn cần thiết và phù hợp, tạo ra gánh nặng chi phí và lãng phí thời gian cho doanh nghiệp;
Hai là, một số quy định của LDN năm 2014 về quản trị DN chưa thực sự tạo thuận lợi cho thành viên, cổ đông, nhà đầu tư thực hiện quyền của mình;
Ba là, quy định về tổ chức lại DN theo LDN năm 2014 còn có một số bất cập, chưa toàn diện và sát với đòi hỏi từ thực tiễn như quy định về chia DN và tách DN không bao quát được hết các phương thức, các trường hợp chia, tách DN trên thực tế; dẫn đến hạn chế quyền, lựa chọn của DN trong tổ chức lại DN. Đồng thời, các quy định về hợp nhất, sáp nhập không còn tương thích, phù hợp với quy định của Luật cạnh tranh năm 2018.
Bốn là, việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ ta. Các quy định về tổ chức quản trị của LDN đối với DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và các DN mà Nhà nước có cổ phần hoặc phần vốn góp chi phối cần thiết được rà soát lại, bổ sung, sửa đổi nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 12- NQ/TW6.
Năm là, yêu cầu đăng ký và tổ chức hoạt động của Hộ kinh doanh đặt trước yêu cầu bức thiết. Các quy định về Hộ kinh doanh trong LDN năm 2014 và Nghị định số 78/2015/NĐ- CP ngày 14/09/2015 về đăng ký DN khi thực hiện trên thực tế chưa thực sự làm rõ địa vị pháp lý và trách nhiệm dân sự của Hộ kinh doanh; quyền kinh doanh bị hạn chế. Ngoài ra, việc quy định chưa thực sự đầy đủ chặt chẽ về Hộ kinh doanh cũng gây khó khăn trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Từ những thực trạng trên, thực hiện Nghị quyết số 57/2018/QH14 ngày 08/06/2018 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 28/06/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức thực hiện Dự án LDN (sửa đổi). Mục tiêu tổng quát khi xây dựng LDN năm 2020 là tiếp tục kế thừa, phát huy kết quả và tác động tốt của các cải cách trong các LDN năm 1999, năm 2005 và năm 2014; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tổ chức quản trị DN đạt chuẩn mực của thông lệ tốt và phổ biến ở khu vực và quốc tế; thúc đẩy phát triển DN, thu hút vốn, nguồn lực vào sản xuất kinh doanh; góp phần nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
2. Một số điểm mới cơ bản trong Luật doanh nghiệp năm 2020
2.1. Một số điểm mới trong các quy định chung
Thứ nhất, thay đổi về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
Khoản 1 Điều 26 LDN năm 2020 đã ghi nhận phương thức đăng ký DN thông qua mạng thông tin điện tử là một trong ba phương thức mà người thành lập DN hoặc người được ủy quyền lựa chọn để thực hiện đăng ký DN với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Hồ sơ đăng ký DN qua mạng thông tin điện tử có giá trị pháp lý tương đương hồ sơ đăng ký DN bằng bản giấy. Với việc luật hóa quy định về đăng ký DN qua mạng điện tử, LDN năm 2020 sẽ tạo thuận lợi cho DN tiết kiệm được thời gian, công sức, nhân lực và tài chính, góp phần đẩy mạnh tỷ lệ đăng ký DN qua mạng điện tử trong thời gian tới.
Thứ hai, bỏ quy định về thông báo mẫu dấu doanh nghiệp.
Điều 43 LDN năm 2020 không còn có quy định: “Trước khi sử dụng, DN có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN” như quy định tại Khoản 2 Điều 44 LDN năm 2014. Điều này đồng nghĩa là, trước khi sử dụng mẫu dấu, DN không cần phải thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh. LDN năm 2014 đã có cải cách rất lớn về cơ chế quản lý con dấu DN, chuyển từ việc cơ quan công an cấp dấu sang cơ chế DN tự quyết định làm dấu và sử dụng con dấu. Sự tiến bộ này của LDN năm 2014 là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, thực tế sau hơn 5 năm thực hiện cho thấy, không còn cần thiết phải can thiệp của cơ quan nhà nước vào việc làm dấu, sử dụng dấu của DN. Việc sử dụng dấu nên giao cho DN tự quyết định theo Điều lệ hoặc quy chế hoạt động, tùy vào mục tiêu, nhu cầu sử dụng dấu. Kế thừa và phát huy nội dung này, LDN năm 2020 đã bãi bỏ thủ tục thông báo mẫu dấu và thay đổi phương thức quản lý dấu, trao quyền cho DN, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, chi phí cho DN.
Thứ ba, bổ sung đối tượng không được thành lập doanh nghiệp.
So với nội dung quy định tại Điều 18 LDN năm 2014 thì Điều 17 LDN năm 2020 đã có bổ sung về đối tượng không có quyền thành lập và quản lý DN, trong đó đáng chú ý nhất là “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” và “tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật hình sự”. Sự bổ sung này tạo tính tương thích, phù hợp giữa LDN và quy định mới tại BLDS năm 2015, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Thứ tư, thay đổi đối với thủ tục tạm ngừng kinh doanh.
Theo quy định tại Điều 200 LDN năm 2014 thì “DN có quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh”, nhưng theo quy định tại Điều 206 LDN năm 2020 với nội dung tương tự, thời hạn này chỉ còn là 03 ngày. Việc rút ngắn thời hạn thực hiện nghĩa vụ thông báo của DN là thuyết phục, và tạo điều kiện tốt hơn cho DN trong việc thực hiện quyền tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 206 LDN năm 2020 bổ sung việc “phối hợp giữa Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan nhà nước có thẩm quyền” nhằm bảo đảm sự tương thích với một số quy định của pháp luật về các trường hợp về tạm đình chỉ hoặc tạm ngừng kinh doanh đối với DN, như Luật quản lý thuế, Bộ luật hình sự…
Thứ năm, bổ sung hồ sơ đăng ký công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Điều 21 “về hồ sơ đăng ký công ty trách nhiệm hữu hạn”; Điều 22 “về hồ sơ đăng ký công ty cổ phần” LDN năm 2020 đều bổ sung thêm yêu cầu phải có bản sao giấy tờ pháp lý của người đại diện theo pháp luật trong khi Điều 22 và Điều 23 LDN năm 2014 quy định về nội dung tương tự thì không có yêu cầu này. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn của các DN và các quy định của pháp luật thì người đại diện theo pháp LDN là một vị trí, chức danh rất quan trọng. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung bản sao giấy tờ pháp lý của người đại diện theo pháp luật, tương tự như thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ đông sáng lập công ty cổ phần.
Thứ sáu, bỏ quy định về báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 12 LDN năm 2014, DN phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh doanh khi có thay đổi thông tin cá nhân của những người sau: Thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần; Thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc (người quản lý DN) và quy định này đã không còn được giữ lại trong LDN năm 2020. Thông tin của những người quản lý DN trên thực tế nằm trong phạm vi thông tin nội bộ của DN, yêu cầu DN phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh doanh khi có thay đổi thông tin cá nhân của những người này không có nhiều ý nghĩa và không làm rõ được mục tiêu quản lý nhà nước. Vì thế, LDN năm 2020 đã không còn giữ lại quy định này, nhằm cắt giảm chi phí thực hiện thủ tục hành chính cho DN.
Thứ bảy, bổ sung quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Khoản 2 Điều 12 LDN năm 2020 bổ sung thêm nội dung “nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ công ty thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của DN trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho DN theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”. LDN năm 2014 đã ghi nhận công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật, nhưng lại chưa có quy định cụ thể về trường hợp quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong Điều lệ thì sẽ xử lý thế nào. Quy định bổ sung thêm đồng thời tương đồng với sự điều chỉnh tương tự trong BLDS năm 2015.
Thứ tám, bổ sung quy định về tên đối với địa điểm kinh doanh.
LDN năm 2014 mặc dù đã quy định về tên đối với địa điểm kinh doanh, nhưng lại không quy định cụ thể cách đặt tên cho địa điểm kinh doanh thế nào, mà chỉ quy định cách đặt tên cho chi nhánh, văn phòng đại diện. LDN năm 2020 đã khắc phục thiếu sót tại Khoản 2, Điều 40 quy định: “Tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên DN kèm theo cụm từ “Chi nhánh” đối với chi nhánh, cụm từ “Văn phòng đại diện” đối với văn phòng đại diện, cụm từ “Địa điểm kinh doanh” đối với địa điểm kinh doanh”.
Thứ chín, làm rõ tư cách pháp lý của văn phòng đại diện.
Khoản 2, Điều 44 LDN năm 2020 có quy định mới với nội dung: “Văn phòng đại diện không thực hiện chức năng kinh doanh của DN”, xác định rõ địa vị pháp lý của Văn phòng đại diện. Nội dung bổ sung này mặc dù đơn giản nhưng lại quan trọng vì trên thực tế, có rất nhiều văn phòng đại diện vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Thứ mười, bổ sung nội dung về giải thể doanh nghiệp.
Điểm d, Khoản 1 Điều 201 LDN năm 2014 quy định “Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN” là một trường hợp DN bị giải thể. Ở quy định tương tự tại điểm d, Khoản 1 Điều 207 LDN năm 2020 bổ sung thêm nội dung: “Trừ trường hợp Luật quản lý thuế có quy định khác” và việc bổ sung nội dung này nhằm tạo tính đồng bộ với quy đinh của Luật quản lý thuế.
Thứ mười một, thay đổi quy định về hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp để phù hợp với quy định tại Luật cạnh tranh năm 2018.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 194, Khoản 3 Điều 195 LDN năm 2014 thì: Trường hợp hợp nhất hoặc sáp nhập mà theo đó công ty hợp nhất/ sáp nhập có thị phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của công ty bị hợp nhất trong trường hợp hợp nhất hoặc của công ty trong trường hợp sáp nhập phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành hợp nhất/ sáp nhập, trừ trường hợp Luật cạnh tranh có quy định khác; Cấm các trường hợp hợp nhất mà theo đó công ty hợp nhất hoặc công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp Luật cạnh tranh có quy định khác. Quy định như trên là để phù hợp với quy định tại Luật cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh năm 20187 đã có những thay đổi nhất định, cụ thể tập trung kinh tế không còn được quy định là một trong những hành vi hạn chế cạnh tranh, theo Khoản 2 Điều 3 Luật cạnh tranh năm 2018 thì hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm: “Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền”. Luật cạnh tranh năm 2018 cũng đã bỏ quy định về việc cấm tập trung kinh tế với các DN có thị phần kết hợp trên 50%, cụ thể Điều 30 Luật cạnh tranh năm 2018 quy định về tập trung kinh tế bị cấm như sau: “DN thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam”. Việc đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của việc tập trung kinh tế thuộc thẩm quyền của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo quy định tại Điều 31 Luật này. Vì những thay đổi trên, LDN năm 2020 cũng đã có những thay đổi để phù hợp, tương thích, đồng bộ với Luật cạnh tranh năm 2018, cụ thể Điều 200 và Điều 201 LDN năm 2020 đã bỏ các quy định cấm như Điều 194, Điều 195 LDN năm 2014, thay vào đó là quy định “Công ty bị hợp nhất phải bảo đảm tuân thủ quy định của Luật cạnh tranh về hợp nhất công ty”, “Các công ty thực hiện việc sáp nhập phải bảo đảm tuân thủ quy định của Luật cạnh tranh về sáp nhập công ty”.
2.2. Những điểm mới về doanh nghiệp tư nhân
Thứ nhất, thay đổi, bổ sung quy định về chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân sang các loại hình doanh nghiệp khác.
Nếu theo LDN năm 2014, cụ thể tại Điều 199 thì DN tư nhân chỉ có thể chuyển đổi sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng với quy định tại Điều 205 LDN năm 2020 thì DN tư nhân còn có thể chuyển đổi sang loại hình công ty cổ phần, công ty hợp danh. Việc LDN năm 2014 chỉ quy định DN tư nhân có thể chuyển đổi trực tiếp sang công ty trách nhiệm hữu hạn mà không quy định cho DN tư nhân có thể chuyển đổi trực tiếp sang công ty cổ phần, công ty hợp danh không có nghĩa là trên thực tế không có trường hợp DN tư nhân chuyển sang công ty cổ phần, công ty hợp danh. Với quy định cũ, khi DN tư nhân muốn chuyển đổi sang công ty cổ phần, công ty hợp danh thì DN tư nhân phải thực hiện một thủ tục hành chính trung gian, cụ thể chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn trước (do quy định cũ chỉ quy định về trường hợp này) sau đó mới chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh. Vì mục đích của DN tư nhân trong trường hợp này là chuyển đổi sang công ty cổ phần, công ty hợp danh, nên thủ tục hành chính trung gian trên hoàn toàn không có ý nghĩa, gây tốn kém, lãng phí cả về thời gian và tiền bạc, làm rườm rà thêm các thủ tục hành chính và ảnh hưởng tới hoạt động của DN. Vì thế, LDN năm 2020 không chỉ quy định cho DN tư nhân được chuyển đổi trực tiếp sang công ty trách nhiệm hữu hạn mà còn quy định cho chuyển đổi trực tiếp sang công ty cổ phần, công ty hợp danh. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN trong việc cơ cấu, tổ chức lại hoạt động, góp phần giảm bớt các thủ tục không cần thiết.
Thứ hai, bổ sung quy định thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt.
Sự bổ sung này xuất phát từ thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp chủ DN tư nhân bị tạm giam, bị kết án tù… nhưng không rõ cách thức thực hiện quyền của chủ DN tư nhân trong trường hợp này. Quy định bổ sung tại Điều 193 LDN năm 2020 nhằm làm chặt chẽ hơn các quy định của LDN, đảm bảo được quyền của chủ DN tư nhân vẫn có thể được thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt, hạn chế tối đa tác động tiêu cực từ những trường hợp này đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN tư nhân.
2.3. Điểm mới về công ty hợp danh
Điều 185 LDN năm 2020 bổ sung thêm quy định về trường hợp thành viên hợp danh bị chấm dứt tư cách khi: Có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; Chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của pháp luật. Bổ sung trên để đảm bảo tính tương thích với quy định liên quan của các văn bản pháp luật khác.
2.4. Những điểm mới về công ty trách nhiệm hữu hạn
Thứ nhất, quyền phát hành cổ phần, trái phiếu của Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Nếu như Điều 47 LDN năm 2014 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được quyền phát hành cổ phần” thì Điều 46 LDN năm 2020 về nội dung tương tự lại quy định: “trừ trường hợp để chuyển đổi thành công ty cổ phần”. Quy định bổ sung này để phù hợp với trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành cổ phần để chuyển đổi thành công ty cổ phần. Điều 46 LDN năm 2020 cũng có một quy định mới là: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được phát hành trái phiếu theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nội dung trên cũng được quy định tương tự tại Điều 74 LDN năm 2020 như với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
So với Điều 54 LDN năm 2014 thì Điều 53 LDN năm 2020 (cùng quy định về vấn đề xử lý phần vốn góp trong một số trường hợp đặc biệt) đã bổ sung thêm quy định điều chỉnh đối với “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” đảm bảo tính đồng bộ với BLDS và các văn bản luật khác. Cũng theo quy định mới, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong công ty của thành viên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được thực hiện thông qua người đại diện, còn theo quy định tại LDN năm 2014, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong công ty của các thành viên này (không bao gồm thành viên có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi như quy định mới) được thực hiện thông qua người giám hộ. Quy định sửa đổi này giúp cho các thành viên trong trường hợp đặc biệt này có điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình tại công ty dễ dàng, linh hoạt, thuận tiện hơn và cũng tương thích với quy định tại BLDS về cơ chế đại diện.
Trường hợp người được tặng cho phần vốn góp tại công ty đương nhiên trở thành thành viên của công ty, theo LDN năm 2014 thì những người này là “vợ, chồng, cha, mẹ, con, người có quan hệ họ hàng đến hàng thừa kế thứ ba” của thành viên tặng cho, còn theo LDN năm 2020 thì những người này “thuộc đối tượng thừa kế theo pháp luật theo quy định của BLDS” của thành viên tặng cho. Thay đổi trên không làm thay đổi nội dung của quy định mà chỉ là thay đổi về mặt kỹ thuật, giúp quy định mới hợp lý, tinh gọn hơn.
Ngoài ra, LDN năm 2020 cũng bổ sung thêm quy định mới đối với hai trường hợp:
Trường hợp quy định tại Khoản 8: “thành viên công ty là cá nhân bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc thì thành viên đó ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc tất cả quyền và nghĩa vụ của mình tại công ty”. Bổ sung quy định xuất phát từ thực tế có phát sinh trường hợp thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn trong quá trình hoạt động, có thành viên bị tạm giam, bị kết án tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề. LDN năm 2014 lại chưa dự liệu trước và chưa có quy định điều chỉnh khi có trường hợp này phát sinh, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của những thành viên này tại công ty không được đảm bảo, bị xâm phạm, thậm chí trong một số trường hợp còn bị “chiếm đoạt”, và hệ quả tất yếu sẽ ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của công ty.
Trường hợp quy định tại Khoản 9: “thành viên công ty là cá nhân bị Tòa án cấm hành nghề, làm công việc nhất định hoặc thành viên công ty là pháp nhân thương mại bị Tòa án cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định thuộc phạm vi ngành, nghề kinh doanh của công ty thì thành viên đó không được hành nghề, làm công việc đã bị cấm tại công ty đó hoặc công ty tạm ngừng, chấm dứt kinh doanh ngành, nghề có liên quan theo quyết định của Tòa án”. Bổ sung thêm quy định này đảm bảo tính tương thích và đồng bộ với quy định của các văn bản luật khác, trong đó có quy định tại Bộ luật hình sự.
Thứ hai, điểm mới trong cơ cấu quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Với trường hợp bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát, Điều 55 LDN năm 2014 quy định:“Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập Ban kiểm soát” còn quy định tại Khoản 2 Điều 54 LDN năm 2020 lại có nội dung: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 88 của Luật này và công ty con của DNNN theo quy định tại Khoản 1 Điều 88 của Luật này phải thành lập Ban kiểm soát” và “các trường hợp khác do công ty quyết định”. Như vậy, đã có sự khác nhau về trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát.
2.5. Những điểm mới về công ty cổ phần
Thứ nhất, quy định mới về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết.
Khoản 6 Điều 114 LDN năm 2020 có một quy định rất mới: “Cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết được gọi là cổ phần phổ thông cơ sở. Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần phổ thông cơ sở, trừ quyền biểu quyết”. LDN năm 2020 bổ sung quy định trên là một minh chứng rõ nét cho nỗ lực tiếp thu, học hỏi và hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế của Việt Nam khi nhiều nước trên thế giới và trung khu vực đã có cơ chế về Chứng chỉ ký quỹ không có quyền biểu quyết (Non-voting Depository Receipt, viết tắt là NVDR).
Thứ hai, sửa đổi quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông.
(i) Thay đổi về quyền của cổ đông phổ thông:
Điều 114 LDN năm 2014 quy định: “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền…”, nhưng quy định tương tự tại Điều 115 LDN năm 2020 lại có nội dung : “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty có các quyền…”. Như vậy, đã có sự thay đổi điều kiện để cổ đông hoặc nhóm cổ đông trong công ty cổ phần được thực hiện một số quyền theo hướng tạo điều kiện hơn cho cổ đông và nhóm cổ đông theo quy định mới khi đã giảm bớt yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần, giảm từ 10% xuống 5% đồng thời bãi bỏ điều kiện “phải sở hữu liên tục ít nhất 06 tháng”. Việc sửa đổi Khoản 2 Điều 114 sẽ trao quyền cho phạm vi đối tượng cổ đông lớn hơn, đúng với tinh thần: “Tạo thuận lợi cho cổ đông thực hiện quyền của mình”, hạn chế được tình trạng cổ đông, nhóm cổ đông có tỉ lệ vốn góp lớn lạm dụng, gây ảnh hưởng tới quyền lợi của cổ đông nhỏ. Đây là thay đổi tuy đơn giản nhưng mang nhiều ý nghĩa tích cực, bảo vệ tốt hơn các cổ đông, nhất là cổ đông nhỏ trong công ty cổ phần. Đồng thời, cũng là một trong những nội dung quan trọng nhất của quy định về quản trị DN, giúp huy động đầu tư tốt hơn, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư.
Ngoài việc tạo điều kiện hơn cho các cổ đông, quy định tại Điều 115 LDN năm 2020 còn thay đổi, bổ sung một số nội dung, cụ thể như bổ sung quyền: “Xem xét, tra cứu, trích lục hợp đồng, giao dịch phải thông qua Hội đồng quản trị và tài liệu khác, trừ tài liệu liên quan đến bí mật thương mại, bí mật kinh doanh của công ty”; Bổ sung nội dung: “Quy định khác của pháp luật có liên quan” khi quy định về trường hợp ngoại lệ của quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác của cổ đông phổ thông tại điểm d, Khoản 1, tạo sự tương thích, đồng bộ, phù hợp với các quy định có liên quan tại các văn bản pháp luật khác.
(ii) Thay đổi về nghĩa vụ của cổ đông:
Nếu Điều 115 LDN năm 2014 quy định về “Nghĩa vụ của cổ đông phổ thông” thì Điều 119 LDN năm 2020 lại quy định về “Nghĩa vụ của cổ đông” nhằm điều chỉnh cho tất cả các cổ đông của công ty cổ phần chứ không chỉ điều chỉnh cho cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông. Ngoài ra, Điều 119 LDN năm 2020 còn bổ sung thêm một nội dung rất đáng chú ý đó là cổ đông còn có nghĩa vụ: “Bảo mật các thông tin được công ty cung cấp theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp luật; chỉ sử dụng thông tin được cung cấp để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nghiêm cấm phát tán hoặc sao, gửi thông tin được công ty cung cấp cho tổ chức, cá nhân khác”. Những thay đổi trên sẽ góp phần nâng cao được trách nhiệm của cổ đông đối với công ty và các cổ đông khác.
Thứ ba, bổ sung trách nhiệm của người quản lý công ty cổ phần.
Khoản 2 Điều 165 LDN năm 2020 bổ sung thêm trách nhiệm của người quản lý DN khi vi phạm quy định về trách nhiệm của mình, cụ thể là: “Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba”. LDN năm 2014 không có quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường của người quản lý DN trong trường hợp vi phạm trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ. Do đó, sự bổ sung về trách nhiệm bồi thường của người quản lý công ty sẽ tạo thuận lợi hơn cho cổ đông khởi kiện người quản lý tới Tòa án, trọng tài trong xử lý tranh chấp có liên quan; phù hợp với thông lệ quốc tế tốt về quản trị DN.
Thứ tư, thay đổi về quyền yêu cầu đình chỉ hoặc hủy bỏ nghị quyết, quyết định do Hội đồng quản trị thông qua.
Trong trường hợp nghị quyết, quyết định do Hội đồng quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông, thì theo quy định tại Khoản 4 Điều 149 LDN năm 2014, “Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên”. Tại Khoản 4 Điều 153 LDN năm 2020 thay đổi: “Cổ đông của công ty có quyền yêu cầu Tòa án đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ nghị quyết, quyết định nói trên”. Như vậy, theo quy định mới, bất cứ cổ đông nào cũng có quyền yêu cầu đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ nghị quyết, quyết định do Hội đồng quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông, thay vì chỉ các cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm mới có quyền yêu cầu đình chỉ thực hiện nghị quyết của Hội đồng quản trị trái với quy định của pháp luật, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông. Ngoài sự thay đổi về chủ thể có quyền yêu cầu, quy định mới cũng mở rộng nội dung quyền yêu cầu (có thể yêu cầu đình chỉ hoặc hủy bỏ, thay vì chỉ có quyền yêu cầu đình chỉ như quy định cũ) và bổ sung đối tượng bị yêu cầu (có thể là Nghị quyết hoặc Quyết định của Hội đồng quản trị, thay vì chỉ là nghị quyết của Hội đồng quản trị theo quy định cũ). Hơn nữa theo quy định mới, cổ đông có quyền yêu cầu Tòa án thực hiện việc đình chỉ/hủy Quyết định/Nghị quyết của Hội đồng quản trị chứ không phải yêu cầu Hội đồng quản trị thực hiện yêu cầu trên, bởi lẽ việc yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ, hủy bỏ nghị quyết của chính mình trên thực tế không thực sự mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, việc xem xét, đánh giá Quyết định, Nghị quyết của Hội đồng quản trị có thực sự trái pháp luật, trái với nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông để đưa đến quyết định có đình chỉ hay hủy Quyết định, Nghị quyết này hay không nên thuộc về thẩm quyền của Tòa án, quy định như vậy vừa hợp lý lại vừa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án theo quy định của các văn bản pháp luật có liên quan như Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ năm, bổ sung thêm các quyền cho Đại hội đồng cổ đông.
Ngoài việc giữ lại các quyền tương tự như quy định tại Điều 135 LDN năm 2014 thì Điều 138 LDN năm 2020 quy định về “Quyền và nghĩa vụ của Đại hội đồng cổ đông” đã bổ sung thêm các quyền sau cho Đại hội đồng cổ đông: “Quyết định ngân sách hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; Quy chế hoạt động Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; Phê duyệt danh sách công ty kiểm toán độc lập; Quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động của công ty, bãi miễn kiểm toán viên độc lập khi xét thấy cần thiết”. Các quyền được bổ sung đều là các nội dung quan trọng, có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quyền và lợi ích của chính các cổ đông. Theo thông lệ quản trị công ty tốt, thì cổ đông phải có quyền tham gia thảo luận và quyết định về những vấn đề như: Quyết định kiểm toán độc lập, quyết định thù lao và ngân sách hoạt động cho Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát… Ngoài ra, bổ sung các quyền trên cũng nhằm mục tiêu là bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của cổ đông, hạn chế tình trạng cổ đông lớn lạm dụng quyền hạn để chèn ép, chiếm đoạt lợi ích của cổ đông nhỏ.
2.6. Những điểm mới về doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, thay đổi về khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Theo LDN năm 2014 “DNNN là DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” còn theo LDN năm 2020 thì “DNNN bao gồm các DN do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Sự thay đổi trên là sự thể chế hóa nội dung của Nghị quyết số 12- NQ/TW ngày 03/06/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN”.
Thứ hai, bổ sung quy định doanh nghiệp nhà nước phải thành lập ban kiểm soát.
Theo Điều 103 (thuộc Chương IV – chương quy định về DNNN) LDN năm 2020 quy định: “Căn cứ quy mô của công ty, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định thành lập Ban kiểm soát có từ 01 đến 05 Kiểm soát viên, trong đó có Trưởng Ban kiểm soát” và thậm chí Điều này còn quy định: “Trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát…” trong khi quy định về nội dung tương tự tại Điều 102 LDN năm 2014 quy định “Căn cứ quy mô của công ty, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định bổ nhiệm 01 Kiểm soát viên hoặc thành lập Ban kiểm soát gồm 03 đến 05 Kiểm soát viên”. Như vậy, so với LDN năm 2014 thì sự thay đổi này của LDN năm 2020 đã buộc DNNN phải thành lập ban kiểm soát. Bổ sung này góp phần giúp cơ cấu tổ chức và hoạt động của DNNN chặt chẽ, hiệu quả hơn.
2.7. Quy định về hộ kinh doanh
Khi xây dựng Dự án LDN (sửa đổi), các quy định liên quan, điều chỉnh hộ kinh doanh là một vấn đề rất được quan tâm. Trên thực tế dự thảo LDN (sửa đổi) đã bổ sung thêm 01 chương, Chương VIIa quy định về hộ kinh doanh. Tuy nhiên, ngày 17/06/2020, tại chương trình làm việc Kỳ họp 9, Quốc hội khoá XIV đã tiến hành biểu quyết thông qua LDN năm 2020. Trong đó, Quốc hội đã thống nhất không đưa hộ kinh doanh vào quy định trong LDN năm 2020 để xây dựng một luật riêng về đối tượng này. Chính vì vậy, trước những bất cập trong các quy định về đăng ký và tổ chức hoạt động của hộ kinh doanh, cần thiết phải có một văn bản luật riêng điều chỉnh đối tượng này để khắc phục những bất cập đã nêu.
3. Một số vấn đề cần có sự hướng dẫn thi hành khi thực hiện các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020
LDN năm 2020 với nhiều nội dung mới, nhiều nội dung quan trọng cần có văn bản hướng dẫn thi hành để đảm bảo phát huy được tối đa hiệu quả của mình. Những vấn đề pháp lý cần có sự hướng dẫn thi hành thì luôn rất nhiều, tùy vào từng thời điểm và đặc thù của từng vấn đề, các cơ quan có thẩm quyền sẽ ban hành văn bản hướng dẫn để phù hợp với vấn đề cần làm rõ. Những vấn đề pháp lý nổi bật cần có sự hướng dẫn thi hành khi thực hiện các quy định của LDN năm 2020 có thể kể đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, trình tự, thủ tục đăng ký DN và các thủ tục liên quan
Trình tự, thủ tục đăng ký DN luôn là một vấn đề pháp lý cần có văn bản hướng dẫn thi hành, nhất là khi LDN năm 2020 đã có những thay đổi nhất định đối với nội dung này, khi phương thức đăng ký DN qua mạng thông tin điện tử đã được LDN năm 2020 ghi nhận và quy định hồ sơ đăng ký DN qua mạng thông tin điện tử có giá trị pháp lý tương đương hồ sơ đăng ký DN bằng bản giấy. Quy định trên sẽ có tác động mạnh mẽ đến thực tiễn, người dân, DN gần như chắc chắn lựa chọn thực hiện thủ tục đăng ký DN bằng phương thức qua mạng thông tin điện tử, để tiết kiệm tối đa chi phí, thời gian và nhân lực. Sự thay đổi, cải cách triệt để này rất cần có những hướng dẫn chi tiết từ cơ quan có thẩm quyền, để việc thực hiện các trình tự, thủ tục đăng ký DN được diễn ra chính xác, nhanh chóng, thuận tiện mà vẫn đảm bảo được sự chặt chẽ trong quản lý hành chính nhà nước về đăng ký DN.
Một số trình tự, thủ tục liên quan đến DN cũng cần có sự hướng dẫn cụ thể, ví dụ như: Trình tự, thủ tục đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký DN; trình tự, thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký DN; trình tự, thủ tục giải thể DN; trình tự, thủ tục phối hợp giữa Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp các cơ quan này yêu cầu DN tạm ngừng, đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh… Dù tất cả các trình tự, thủ tục này, về cơ bản không phải là mới, nhưng phương thức thực hiện ở thực tế, khi LDN năm 2020 có hiệu lực chắc chắn đa phần sẽ thực hiện thông qua mạng thông tin điện tử. Vì vậy, việc hướng dẫn chi tiết các thủ tục này là cần thiết.
Thứ hai, về quản lý mẫu dấu
Một nội dung mới rất quan trọng liên quan đến DN đó là LDN năm 2020 đã chính thức bỏ quy định về thông báo mẫu dấu DN. Bên cạnh những điểm tích cực, việc bỏ quy định về thông báo mẫu dấu DN cũng tiềm tàng những mối lo nhất định. Việc quản lý mẫu dấu của DN sẽ trở nên khó khăn hơn khi quy định này được áp dụng, có thể dẫn đến thực trạng DN tùy ý sử dụng dấu, có thể xuất hiện nhiều hơn những trường hợp làm giả con dấu, tài liệu giấy tờ gây ra tâm lý lo lắng, sợ bị lợi dụng, lừa đảo, và những tranh chấp có thể sẽ gia tăng khi mẫu con dấu không được cơ quan Nhà nước quản lý chặt chẽ. Vì vậy, để đảm bảo vừa tạo điều kiện tốt cho DN, vừa đảm bảo sự chặt chẽ trong quản lý, rất cần có văn bản hướng dẫn quy định chi tiết về nội dung này.
Thứ ba, hướng dẫn về quy định hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của DN; thông báo địa điểm kinh doanh
Bên cạnh các nội dung về đăng ký DN, các nội dung khác như đăng ký hoặc chấm dứt hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện của DN; thông báo địa điểm kinh doanh cũng là nội dung mà LDN năm 2020 quy định tương đối chung chung, cần có văn bản quy định chi tiết.
Thứ tư, các quy định liên quan đến doanh nghiệp nhà nước
DNNN theo quy định của LDN năm 2020 đã có những thay đổi quan trọng từ việc quy định: “DNNN là DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” tại Khoản 8, Điều 4, LDN năm 2014 (quy định về giải thích từ ngữ) thì LDN năm 2020 đã dành riêng một điều luật đó là Điều 88 quy định về “DNNN”, bổ sung thêm trường hợp DNNN còn là “DN do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Sự bổ sung trên đã làm thay đổi căn bản khái niệm về DNNN, dẫn đến những thay đổi về đặc điểm, tính chất, cơ cấu tổ chức, hoạt động… của loại hình DN này. Chính những tác động mạnh mẽ từ việc thay đổi quy định về DNNN trong LDN, những vấn đề pháp lý liên quan đến DNNN cần thiết phải có văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài những quy định chung về DNNN (như quy định tại Điều 88) thì một số quy định cụ thể, có tính chất phức tạp cần được hướng dẫn thi hành như quy định về Ban kiểm soát, Kiểm soát viên tại DNNN (như đã trình bày, theo quy định mới thì DNNN bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát).
Thứ năm, hướng dẫn quy định mới về doanh nghiệp tư nhân:
LDN năm 2020 không chỉ quy định cho DN tư nhân được chuyển đổi trực tiếp sang công ty trách nhiệm hữu hạn mà còn quy định cho chuyển đổi trực tiếp sang công ty cổ phần, công ty hợp danh. Đây là một vấn đề pháp lý mới, đòi hỏi cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết để quy định này thực sự được thực hiện hiệu quả trên thực tế cũng như tránh được những bất cập, rủi ro từ việc chuyển đổi trực tiếp này mang lại (thực tế LDN năm 2014 quy định chỉ cho DN tư nhân chuyển đổi trực tiếp sang công ty trách nhiệm hữu hạn là do lo ngại những rủi ro khi quy định cho DN tư nhân chuyển đổi trực tiếp sang công ty cổ phần, công ty hợp danh).
Thứ sáu, hướng dẫn về việc phát hành cổ phần, trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn
Lần đầu tiên, quyền phát hành cổ phần, trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn được ghi nhận tại LDN năm 2020. Căn cứ Khoản 3 và Khoản 4 Điều 46, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 74 LDN năm 2020 chưa thực sự cụ thể và chi tiết, việc phát hành trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn là “theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan” cần phải có văn bản hướng dẫn cho nội dung rất mới này.
Thứ bảy, các quy định về công ty cổ phần
Theo LDN năm 2020, chương quy định về công ty cổ phần là chương có nhiều quy định mới. Một trong những điểm mới nổi bật nhất về công ty cổ phần nói riêng, LDN nói chung là vấn đề về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết. Đây là một nội dung hoàn toàn mới, là một tiến bộ và một bước tiến lớn của LDN năm 2020 trong quá trình hội nhập sâu rộng với kinh tế Quốc tế của Việt Nam. LDN năm 2020 chưa quy định cụ thể về chứng chỉ ký quỹ không có quyền biểu quyết vì vậy, chúng ta phải chờ các văn bản hướng dẫn của Chính phủ trong tương lai để những quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết thực sự phát huy được hiệu quả tích cực trong thực tế.
Thứ tám, ngoài điểm mới nêu trên, một số vấn đề pháp lý khác về công ty cổ phần cũng cần được quy định chi tiết hướng dẫn thi hành, phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội trong từng thời kì, có thể kể ra một số vấn đề: các vấn đề pháp lý liên quan đến cổ phần; trình tự, thủ tục chào bán và chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ;…
Bên cạnh những vấn đề pháp lý nổi bật trên, còn nhiều quy định khác của LDN năm 2020 cần có hướng dẫn thi hành một cách chi tiết và cụ thể, đảm bảo có sự thống nhất giữa người dân, DN và các cơ quan nhà nước trong việc hiểu và áp dụng các quy định này vào thực tiễn. Hy vọng, với những thay đổi mạnh mẽ từ việc hạn chế, loại bỏ những điểm khiếm khuyết, kế thừa và phát triển những điểm hợp lý từ LDN năm 2014, LDN năm 2020 sẽ có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời kì mới./.
CHÚ THÍCH
- Phó giáo sư, Tiến sỹ, Giảng viên cao cấp, Trưởng Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Học viên cao học lớp 27NC03, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- LDN năm 2020 có hiệu lực vào ngày 01/01/2021 gồm 10 chương và 218 điều, trong đó có nhiều nội dung thay đổi so với LDN năm 2014.
- Tham khảo: (i) Chính Phủ, Tờ trình số 533/TTr-CP ngày 28 tháng 10 năm 2019 “Tờ trình LDN sửa đổi”; Tờ trình số 534/TTr-CP ngày 28 tháng 10 năm 2019 “Tờ trình (rút gọn) LDN sửa đổi”; (ii) Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bản thuyết minh chi tiết về Dự án LDN (sửa đổi) kèm theo Báo cáo số 7900/BC-BKHĐT ngày 25/10/2019).
- LDN năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/7/2015.
- Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN”đã chỉ rõ các quan điểm chỉ đạo: DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đó là: Đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN, tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để DNNN thật sự vận hành theo cơ chế thị trường, đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước đối với DNNN.
- Luật cạnh tranh năm 2018 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/06/2018 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2019.
Trả lời