Tổng quan những điểm mới của Luật Đầu tư năm 2020
Tác giả: Nguyễn Thanh Lý [1]
TÓM TẮT
Luật Đầu tư năm 2014 đã góp phần xóa bỏ rào cản trong hoạt động đầu tư, kinh doanh không phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thi hành, Luật Đầu tư năm 2014 đã bộc lộ một số bất cập trong các quy định và vướng mắc trong quá trình thực thi, do đó, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa một số quy định để phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đó, Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 được thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV ngày 17/6/2020 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 có một số điểm mới quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Đầu tư năm 2014. Bài viết này khái quát bối cảnh xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2020, đồng thời tổng quan những điểm mới nổi bật của Luật Đầu tư năm 2020.
1. Bối cảnh xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2020
Luật Đầu tư là một trong những đạo luật quan trọng, có sự tác động lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực. Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật, trong đó có Luật Đầu tư. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta với nền kinh tế mở, nhiều thành phần kinh tế đang đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế quốc tế thì các quy định về đầu tư cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Có thể khẳng định, việc xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2020 là cần thiết và cấp bách, xuất phát từ những lý do sau:
Một là, Luật Đầu tư cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh. Quá trình thực hiện Luật Đầu tư năm 2014 và một số Luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh như: Luật Đầu tư công, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật kinh doanh bất động sản, Luật nhà ở, Luật bảo vệ môi trường và một số luật chuyên ngành khác… cho thấy còn một số nội dung chưa được quy định thống nhất, đồng bộ giữa các Luật, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thủ tục về đầu tư, đất đai, xây dựng, nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường… Sự trùng lặp, chồng chéo trong các quy định về vấn đề này giữa các Luật đã và đang gây nhiều khó khăn cho cả nhà đầu tư cũng như cơ quan quản lý trong việc triển khai hoạt động đầu tư, kinh doanh cũng như công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động này. Bởi vậy, cần khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi trong việc thực hiện các quy định của Luật Đầu tư và các luật có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Hai là, Luật Đầu tư phải đáp ứng yêu cầu huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển phù hợp với tình hình mới. Sau 5 năm thực hiện, Luật Đầu tư năm 2014 đã bộc lộ một số bất cập như: (1) Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện chưa được quy định đầy đủ, chưa có cơ chế kiểm soát, giám sát chặt chẽ; (2) Các hình thức đầu tư chậm được đổi mới, chưa thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của các mô hình, phương thức tổ chức kinh doanh mới trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4; (3) Các lĩnh vực, ngành, nghề ưu đãi, hỗ trợ đầu tư còn dàn trải, hình thức; (4) Các quy định về ngành, nghề cấm đầu tư và đầu tư có điều kiện từ Việt Nam ra nước ngoài chưa được cập nhật, hệ thống hóa để bảo đảm tính minh bạch và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động này… Để khắc phục những khiếm khuyết của Luật Đầu tư năm 2014, việc xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2020 có ý nghĩa lớn từ phương diện khoa học pháp lý.
Ba là, bên cạnh những thành tựu quan trọng, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã bộc lộc một số hạn chế, bất cập và những vấn đề mới phát sinh, đòi hỏi phải có quan điểm, định hướng và giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút nguồn vốn này cũng như công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh. Do đó, Luật Đầu tư cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện công cụ cần thiết để bảo đảm, thu hút nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Bốn là, Luật Đầu tư cần được tiếp tục hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết hội nhập, góp phần cải thiện, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh. Trong thời gian qua, Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với phạm vi, mức độ cam kết cao hơn về mở cửa thị trường và tự do hóa đầu tư, thương mại cũng đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, trong đó có Luật Đầu tư nhằm bảo đảm thực hiện cam kết hội nhập.
Từ thực tế trên, việc sửa đổi Luật Đầu tư cần được thực hiện một cách toàn diện nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật hiện hành và tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp Luật Đầu tư. Việc xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2020 cũng nhằm mục đích thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân và hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
2. Một số điểm mới nổi bật của Luật Đầu tư năm 2020
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc áp dụng Luật Đầu tư và các luật có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch và khả thi trong việc thực hiện các quy định của Luật Đầu tư và các luật có liên quan đến đầu tư, kinh doanh, Luật Đầu tư năm 2020 đã làm rõ hơn về phạm vi điều chỉnh và nguyên tắc áp dụng, cụ thể như sau: Trước đây, theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 thì: “trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và luật khác về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật này, trừ trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh theo quy định tại Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật dầu khí. Hiện nay, Luật Đầu tư năm 2020 đã phân định rõ phạm vi điều chỉnh cũng như nguyên tắc áp dụng của Luật Đầu tư và các Luật khác có liên quan”2. Theo đó, “trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư. Quy định về tên ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong các luật khác phải thống nhất với Điều 6 và các Phụ lục của Luật Đầu tư”3.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính thống nhất, Luật Đầu tư năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung một số khái niệm, thuật ngữ gồm:
(1) Bổ sung khái niệm “chấp thuận chủ trương đầu tư” để làm rõ mục đích, bản chất của việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương thực hiện dự án;
(2) Sửa đổi, bổ sung các khái niệm về “đầu tư kinh doanh”, “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”, “điều kiện đầu tư kinh doanh”, “điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài” theo hướng làm rõ hình thức, nội dung cụ thể của khái niệm này nhằm bảo đảm tính khả thi, minh bạch và thống nhất trong quá trình thực hiện;
(3) Sửa đổi khái niệm “vốn đầu tư” để thể hiện đầy đủ các hình thái tài sản được hình thành từ vốn đầu tư phù hợp với quy định của pháp luật về dân sự và Điều ước quốc tế;
(4) Bãi bỏ khái niệm “hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư” và quy định về đầu tư theo hình thức PPP để bảo đảm áp dụng thống nhất khái niệm này với Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Thứ hai, về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Một là, chính thức cấm kinh doanh dịch vụ đòi nợ. Hoạt động “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, được quy định tại Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ đòi nợ. Tuy nhiên, trong thời gian qua, một số tổ chức, cá nhân đã không tuân thủ điều kiện đầu tư kinh doanh cũng như quy định của pháp luật có liên quan khi kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê, dẫn đến phát sinh nhiều hệ quả tiêu cực đối với xã hội. Khắc phục tình trạng này, Luật Đầu tư năm 2020 đã đưa ngành nghề “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” vào danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và được quy định tại Khoản 1, Điều 6, Luật Đầu tư năm 2020.
Hai là, số lượng ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện giảm còn 227 ngành, nghề.
Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trước đây được áp dụng theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư năm 2014, bao gồm 243 ngành, nghề. Quá trình thực hiện Luật Đầu tư năm 2014 cho thấy, một số ngành, nghề trong Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư không liên quan trực tiếp hoặc không chứng minh được có ảnh hưởng trực tiếp tới các nội dung quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp, Khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư). Trên thực tế, ngoài việc quản lý bằng điều kiện đầu tư kinh doanh, một số ngành, nghề còn được quản lý thông qua các phương thức khác như quản lý bằng quy chuẩn, tiêu chuẩn; quản lý chất lượng đầu ra theo thị trường, khách hàng lựa chọn, sàng lọc và quyết định hoặc các sản phẩm, dịch vụ công ích được lựa chọn, kiểm soát thông qua đấu thầu, đặt hàng của Nhà nước. Các ngành, nghề này không cần thiết phải tiếp tục quản lý bằng điều kiện đầu tư kinh doanh để bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, tránh chồng chéo4.
Khắc phục những khó khăn, bất cập trên, từ ngày 01/01/2021, số lượng ngành, nghề kinh doanh có điều kiện sẽ được giảm xuống còn 227 ngành nghề theo Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện ban hành kèm theo Luật Đầu tư năm 2020. Việc rà soát và giảm bớt số lượng ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư năm 2020 sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đồng thời, tạo thuận lợi cho việc gia nhập thị trường của người dân và doanh nghiệp, bảo đảm thực hiện đầy đủ, nhất quán quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp trong những ngành, nghề mà Luật không cấm hoặc quy định phải có điều kiện.
Ba là, Luật Đầu tư năm 2020 quy định hướng tiếp cận rõ ràng về ngành, nghề và điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Quy định này nhằm bảo đảm hiệu quả thực hiện cam kết về tự do hóa và mở cửa thị trường đầu tư của Việt Nam theo các Hiệp định đầu tư song phương và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Theo đó, căn cứ luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ công bố Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm: a) Ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường; b) Ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện. Ngoài 2 nhóm ngành, nghề này, nhà đầu tư nước ngoài được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường như quy định đối với nhà đầu tư trong nước.
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020, điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài quy định tại Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài bao gồm 6 nội dung: Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế; Hình thức đầu tư; Phạm vi hoạt động đầu tư; Năng lực của nhà đầu tư; Đối tác tham gia thực hiện hoạt động đầu tư; Điều kiện khác theo quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Thứ ba, về thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư.
Quá trình thực hiện Luật Đầu tư năm 2014 cho thấy, các lĩnh vực, ngành, nghề ưu đãi đầu tư còn thiếu tính chọn lọc. Một số tiêu chí, điều kiện và hình thức áp dụng ưu đãi đầu tư thiếu tính linh hoạt, chậm được đổi mới để đáp ứng yêu cầu thu hút các nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư còn dàn trải do chưa có tiêu chí xác định cụ thể và hợp lý; chưa có sự phân biệt ưu đãi giữa ngành sản xuất với các hoạt động thương mại, dịch vụ và giữa các ngành, nghề đầu tư khác nhau trong các Khu kinh tế; chưa có cơ chế phù hợp, có tính vượt trội để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư nước ngoài5. Do đó, Luật doanh nghiệp năm 2020 đã khắc phục hạn chế này bằng cách:
Một là, bổ sung nhiều ngành, nghề ưu đãi đầu tư6 so với hiện nay, gồm: Giáo dục đại học; Sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ; Sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; Bảo quản thuốc, sản xuất trang thiết bị y tế; Sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ tạo ra hoặc tham gia chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành.
Hai là, Luật Đầu tư năm 2020 bổ sung thêm hình thức ưu đãi đầu tư7 (Khoản 1 Điều 15) bao gồm: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn thuế, giảm thuế và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất; Khấu hao nhanh, tăng mức chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế (đây là quy định mới so với Luật Đầu tư năm 2014).
Ba là, Luật Đầu tư năm 2020 đã bổ sung chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt tại Điều 20. Theo đó, việc áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt nhằm khuyến khích phát triển một số dự án đầu tư có tác động lớn đến phát triển kinh tế – xã hội do Chính phủ quyết định và được áp dụng đối với các đối tượng sau đây: Dự án đầu tư thành lập mới (bao gồm cả việc mở rộng dự án thành lập mới đó) các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển có tổng vốn đầu tư từ 3.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 1.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư; trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 30.00 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 10.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư.
Mức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt: Mức ưu đãi và thời hạn áp dụng ưu đãi đặc biệt thực hiện theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về đất đai. Hỗ trợ đầu tư đặc biệt được thực hiện theo các hình thức quy định tại Khoản 1 Điều 18 của Luật Đầu tư 2020.
Bốn là, Luật Đầu tư năm 2020 đã bổ sung nhiều đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư so với quy định của Luật Đầu tư năm 2014. Cụ thể, các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư từ ngày 01/01/2021 sẽ bao gồm: Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư quy định tại Khoản 1 Điều 16 Luật Đầu tư năm 2020; Dự án đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Đầu tư 2020; Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư, đồng thời có một trong các tiêu chí sau: có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10.000 tỷ đồng mỗi năm trong thời gian chậm nhất sau 03 năm kể từ năm có doanh thu hoặc sử dụng trên 3.000 lao động; Dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội; dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên; dự án đầu tư sử dụng lao động là người khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ; dự án có chuyển giao công nghệ thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ; cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về công nghệ cao, pháp luật về khoa học và công nghệ; doanh nghiệp sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, sản phẩm và dịch vụ phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; Dự án đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển; Đầu tư kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ và vừa; đầu tư kinh doanh cơ sở kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp nhỏ và vừa; đầu tư kinh doanh khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ tư, về cải cách thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Về hình thức đầu tư, Luật Đầu tư năm 2014 quy định các hình thức đầu tư kinh doanh gồm: (i) đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; (ii) đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong tổ chức kinh tế; (iii) đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh; (iv) thực hiện dự án đầu tư. Thực tiễn thực hiện cho thấy, các hình thức đầu tư này còn thiếu tính đa dạng, chậm được đổi mới, không phù hợp và chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các mô hình đầu tư kinh doanh mới đang phát triển nhanh chóng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ở Việt Nam và trên thế giới (như mô hình kinh tế chia sẻ, ủy thác đầu tư, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới…)8. Bên cạnh đó, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư đã phát sinh nhiều vướng mắc. Bởi vậy, Luật Đầu tư năm 2020 đã có nhiều quy định mới nhằm thực hiện mục tiêu tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở bảo đảm an ninh, quốc phòng, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường9. Một số điểm mới nổi bật có thể kể đến như sau:
Một là, Luật Đầu tư năm 2020 đã hoàn thiện các quy định về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo hướng: bổ sung quy định để làm rõ nguyên tắc, điều kiện áp dụng từng hình thức lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất, gồm: đấu giá quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai; đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo quy định của luật đấu thầu; chấp thuận chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư. Đồng thời, sửa đổi thủ tục thẩm định dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội theo hướng đơn giản hóa thủ tục lấy ý kiến thẩm định của Bộ, cơ quan liên quan, xóa bỏ thủ tục trùng lặp 02 bước lấy ý kiến (Cơ quan đăng ký đầu tư lấy ý kiến Bộ, cơ quan liên quan và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục lấy kiến của các cơ quan này trong quá trình thẩm định dự án).
Hai là, sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho việc triển khai dự án đầu tư, cụ thể:
(1) Để đảm bảo thực hiện dự án đầu tư, Luật Đầu tư năm 2020 ngoài quy định nhà đầu tư phải ký quỹ hoặc phải có bảo lãnh ngân hàng về nghĩa vụ ký quỹ để bảo đảm thực hiện dự án đầu tư có đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Việc bổ sung biện pháp bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện dự án đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (ngoài biện pháp ký quỹ) nhằm mở rộng, đa dạng hóa các hình thức bảo đảm thực hiện dự án đầu tư.
(2) Luật Đầu tư năm 2020 bỏ quy định về giãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư để thực hiện thống nhất thủ tục điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và đồng bộ với quy định của Luật đất đai (bãi bỏ Điều 46 Luật Đầu tư năm 2014).
(3) Sửa đổi, bổ sung một số quy định khác về điều kiện, thủ tục chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư; trình tự, thủ tục thanh lý tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hướng thống nhất với quy định có liên quan của Luật đất đai10.
Ba là, hoàn thiện các quy định về thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với 2 nội dung quan trọng là:
(1) Bổ sung quy định không yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trước khi thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo. Bởi, dự án đầu tư khởi nghiệp sáng tạo là dự án đầu tư thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh. Luật Đầu tư năm 2020 đã xác định dự án khởi nghiệp là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, do đó, việc bổ sung quy định: “trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trừ trường hợp thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa” là phù hợp với đối tượng và thống nhất với quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa11.
(2) Sửa đổi quy định về thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng: Phân định rõ điều kiện, thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp theo quy định của Luật Đầu tư và điều kiện, thủ tục góp vốn, mua, bán cổ phần của công ty đại chúng; tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty đại chúng theo Luật chứng khoán. Trường hợp pháp luật về chứng khoán không quy định về điều kiện, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư. Bãi bỏ thủ tục đăng ký trong trường hợp việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp không làm tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp. Ngoài ra, Luật Đầu tư đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hiện thống nhất thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần và thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp tại Cơ quan đăng ký đầu tư12. Đây là những sửa đổi cần thiết của Luật Đầu tư năm 2020 nhằm thống nhất với các quy định của Luật doanh nghiệp và Luật chứng khoán mới được sửa đổi trước đó.
Bốn là, Luật Đầu tư năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý dự án đầu tư, bảo đảm an ninh, quốc phòng, môi trường. Cụ thể như sau:
(1) Luật Đầu tư đã bổ sung nguyên tắc nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư kinh doanh. Đồng thời, bổ sung quy định nhằm tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý áp dụng các biện pháp cần thiết (như từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư, ngừng, chấm dứt hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư…) trong trường hợp các hoạt động này gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến an ninh, quốc phòng, di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng và môi trường.
(2) Luật Đầu tư năm 2020 đã bổ sung quy định yêu cầu chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong trường hợp đầu tư góp vốn mua cổ phần, phần vốn góp tại doanh nghiệp có dự án đầu tư, kinh doanh trong một số địa bàn có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh13.
(3) Các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên và dự án có điều kiện chuyển giao không bồi hoàn (Khoản 4 Điều 44) khi hết thời hạn thực hiện dự án không được xem xét gia hạn thực hiện dự án đầu tư… Ngoài ra, Luật Đầu tư năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về giám định vốn đầu tư trong trường hợp cần thiết để xác định căn cứ tính thuế, góp phần hạn chế tình trạng chuyển giá, trốn thuế14, đồng thời, bổ sung quy định về chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư trong trường hợp nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở giao dịch giả tạo về vốn, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý các trường hợp đầu tư chui, đầu tư núp bóng diễn ra phổ biến trong thời gian qua15.
Thứ năm, về quản lý hoạt động đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Sau 5 năm thực hiện Luật Đầu tư năm 2014, các ngành, nghề cấm đầu tư ra nước ngoài và ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện chưa được cập nhật, hệ thống hóa để bảo đảm tính minh bạch, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước. Quá trình thực hiện cho thấy hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài và triển khai hoạt động đầu tư ở nước ngoài còn phức tạp, thiếu tính khả thi. Vì vậy, theo quy định mới của Luật Đầu tư năm 2020, từ ngày 01/01/2021 các nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư, kinh doanh ra nước ngoài không được đầu tư, kinh doanh các ngành nghề sau: (i) Ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh quy định tại Điều 6 của Luật này và các điều ước quốc tế có liên quan; (ii) Ngành, nghề có công nghệ, sản phẩm thuộc đối tượng cấm xuất khẩu theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại thương; (iii) Ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư. Luật Đầu tư cũng bổ sung quy định về ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện, gồm các ngành, nghề: ngân hàng; bảo hiểm; chứng khoán; báo chí, phát thanh, truyền hình; và kinh doanh bất động sản16. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư năm 2020 đã sửa đổi Khoản 1 Điều 66 của Luật Đầu tư năm 2014 để cho phép nhà đầu tư được giữ lại lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư trong 3 trường hợp: Tiếp tục góp vốn đầu tư ở nước ngoài trong trường hợp chưa góp đủ vốn theo đăng ký; Tăng vốn đầu tư ra nước ngoài; Thực hiện dự án đầu tư mới ở nước ngoài. Những quy định mới này của Luật Đầu tư năm 2020 sẽ đảm bảo tính minh bạch trong chính sách về đầu tư ra nước ngoài, giúp nhà đầu tư Việt Nam tiếp cận thị trường nước ngoài một cách thuận lợi hơn. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với một số ngành, nghề cấm và ngành nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Ngoài những điểm mới nổi bật trên, Luật Đầu tư năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định khác của Luật Đầu tư năm 2014 nhằm khắc phục những điểm còn khiếm khuyết, hạn chế, bất cập của Luật Đầu tư năm 2014 và hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung. Trong thời gian qua, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều đạo luật quan trọng, do đó, việc xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2020 là cấp thiết, góp phần nâng cao sự phù hợp, đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống pháp luật. Đặc biệt, những sửa đổi, bổ sung này có tác động lớn đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư, cũng như cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư. Hy vọng trong thời gian tới, những điểm mới này của Luật Đầu tư năm 2020 sẽ có những đóng góp tích cực cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và nền kinh tế Việt Nam./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên Học viện Khoa học Xã hội.
- Khoản 2, Điều 4, Luật Đầu tư năm 2014.
- Khoản 2, Điều 4, Luật Đầu tư năm 2020.
- Chính phủ (2019), Báo cáo Đánh giá tác động chính sách của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).
- Chính phủ (2019), Báo cáo Đánh giá tác động chính sách của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).
- Khoản 1, Điều 16, Luật Đầu tư năm 2020.
- Khoản 1, Điều 15, Luật Đầu tư năm 2020.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Báo cáo số 6671/BC-BKHĐT ngày 13/9/2019 Nghiên cứu về pháp Luật Đầu tư của một số nước.
- Chính phủ (2019), Báo cáo Đánh giá tác động chính sách của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).
- Điều 48, Luật Đầu tư năm 2020.
- Khoản 7 Điều 3; Điểm e, Khoản 2, Điều 15; Điểm c, Khoản 1, Điều 22 Luật Đầu tư năm 2020.
- Chính phủ (2019), Báo cáo Đánh giá tác động chính sách của Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).
- Điểm c, Khoản 2, Điều 26 Luật Đầu tư năm 2020.
- Điều 45 Luật Đầu tư năm 2020.
- Điểm e, Khoản 2, Điều 48 Luật Đầu tư năm 2020.
- Điều 53, Điều 54, Luật Đầu tư năm 2020.
Trả lời