Mục lục
Phát triển bền vững và hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài – nhìn từ góc độ luật và chính sách của Trung Quốc
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN) ở phạm vi toàn cầu đã có sự phát triển mạnh mẽ. Với trường hợp Trung Quốc, từ khi đề ra chính sách “Hướng ra toàn cầu” vào năm 2001, hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Trung Quốc đã gia tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng dự án. Song song với những chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động ĐTTTRNN, Trung Quốc cũng đề ra một loạt các quy định nhằm xây dựng một khuôn khổ chính sách hướng đến sự phát triển ĐTTTRNN bền vững. Hệ thống chính sách và quy định này nhấn mạnh những cam kết của chính phủ và các nhà đầu tư Trung Quốc trong việc gắn chặt phát triển đầu tư với giải quyết những vấn đề xã hội và môi trường tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Bài viết cung cấp một góc nhìn khái quát từ quy định và thực tế của Trung Quốc về các yếu tố nhằm phát triển bền vững tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư nói chung và Việt Nam nói riêng.
Xem thêm:
- Quy định trong khuôn khổ ASEAN về tự do hóa giao dịch vốn – tác động đối với các hoạt động đầu tư theo pháp luật Việt Nam – TS. Phan Thị Thành Dương & ThS. Nguyễn Thị Thương
- Một số vấn đề về quyền ban hành quy định bảo vệ môi trường của quốc gia tiếp nhận đầu tư – ThS. Nguyễn Hoàng Thái Hy & ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy
- Nguyên tắc bảo mật trong trọng tài đầu tư quốc tế và bình luận về sự bảo mật trong các tranh chấp đầu tư của Việt Nam – ThS. Lê Thị Ánh Nguyệt
- Truất hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp làm ô nhiễm môi trường – TS. Trần Việt Dũng
- Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và việc giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Trách nhiệm bồi thường đối với hành vi truất hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài và các phương pháp định giá tài sản để bồi thường trong pháp luật đầu tư quốc tế – TS. Trần Việt Dũng
- Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư trong khuôn khổ Hiệp định tự do thương mại – đầu tư Việt Nam – EU (EVFTA) – Một số vấn đề cần lưu ý – ThS. Nguyễn Thị Lan Hương
- Biện pháp hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước của các Điều ước đầu tư: Phân tích từ kinh nghiệm của Úc và New Zealand – TS. Trần Việt Dũng
1. Khái quát về “phát triển bền vững” trong quan hệ với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Theo một nghĩa chung nhất, phát triển bền vững có thể được hiểu là “một sự phát triển hài hòa, có cân nhắc đến tất cả các yếu tố tác động để có thể đạt được hiệu quả trong hiện tại và ngay cả sự phát triển ổn định trong tương lai.”[1] Phát triển bền vững còn được định nghĩa là: “Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triểnvề mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa”.[2] Theo quan điểm của chúng tôi, khi đề cập “phát triển bền vững” nói chung và trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta nên tập trung vào việc gắn kết các yếu tố mang tính vĩ mô của một quốc gia, bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường. Theo đó, “phát triển bền vững” được xem là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế, phát triển xã hội (việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Về bản chất, cho dù khái niệm “phát triển bền vững” thường được gắn với những vấn đề mang tầm vĩ mô như trên, thuật ngữ này có 2 thành tố chính, đó là “phát triển” và tính chất “bền vững – lâu dài”.
Khi gắn kết “phát triển bền vững” với ĐTTTRNN, để hoạt động này “phát triển bền vững”, cần đảm bảo sự phát triển mọi mặt, đồng đều, có cân nhắc tất cả các yếu tố tác động đến hoạt động ĐTTTRNN: từ chính sách pháp luật, cơ chế, cơ quan quản lý, hỗ trợ của nhà nước ở quốc gia có doanh nghiệp (DN) đầu tư đến những yêu cầu, yếu tố, điều kiện, kinh nghiệm, bài học… ở quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Hiện nay, trên thế giới, ĐTTTRNN là xu thế chung của các quốc gia. Xu thế này giúp các quốc gia mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận khách hàng, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa. Hơn nữa, ĐTTTRNN còn mang lại những lợi ích trong việc tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota nhập khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường, đồng thời tăng cường khoa học kỹ thuật, nâng cao năng lực quản lý, trình độ tiếp thị với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để duy trì và phát huy các lợi ích trên, sự “phát triển bền vững” trong hoạt động đầu tư được các quốc gia quan tâm. Sự quan tâm này không những đến từ các quốc gia tiếp nhận đầu tư – nơi có thể phải chịu hậu quả trực tiếp của các hành vi đầu tư không bền vững, mà cả từ các quốc gia có DN ĐTTTRNN nhằm giữ hình ảnh quốc gia và khuyến khích sự tăng trưởng bền vững của DN đầu tư tại các quốc gia và địa phương khác nhau.
2. Vài nét về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung quốc
ĐTTTRNN được coi là một trong những trụ cột chính của chính sách hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc. Tuy nhiên vào những năm cuối thập kỷ 1970, ĐTTTRNN ở Trung Quốc vẫn hạn chế vì nguồn vốn và đặc thù của chính sách đầu tư. Sự hạn chế này kéo dài đến cuối những năm 1990 cho đến khi có chiến lược “Hướng ra toàn cầu – toàn cầu hóa ĐTTTRNN” năm 2001. Sau đó, chính sách “Cải cách hệ thống đầu tư” năm 2004 của Trung Quốc đã thúc đẩy ĐTTTRNN hơn nữa bằng quy định phân cấp đầu tư cấp tỉnh, cũng như sự thả lỏng hơn về chính sách kiểm soát ngoại hối. Quá trình tự do hóa này, cùng với các gói “kích cầu đầu tư”, đã hỗ trợ rất hiệu quả các DN Trung Quốc còn ít kinh nghiệm thâm nhập vào thị trường các quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Thiên niên kỷ mới cùng với những chính sách của nhà nước đã làm hoạt động ĐTTTRNN của Trung Quốc tăng mạnh. Vào năm 2006, Trung Quốc xếp thứ tám trên thế giới về tổng vốn ĐTTTRNN, đến năm 2008, Trung Quốc xếp thứ năm và từ năm 2009, xếp thứ hai thế giới – chỉ sau Hoa Kỳ. Các chuyên gia đã đánh giá rằng: cùng với quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, ĐTTTRNN của Trung Quốc đã tăng gần 300% so với suốt 2 thập niên. Điển hình có thể kể đến Tập đoàn Lenovo mua lại phần máy tính của tập đoàn IBM (tháng 12/2004), Tập đoàn TCL mua lại France Thomson Electronics (2004), Tập đoàn Nanjing Automotive mua UKAMG Rover Group vào năm 2005. Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 2006 đã đẩy mạnh hoạt động ĐTTTRNN của các DN Trung Quốc đầu tư vào các công ty dầu mỏ trên thế giới – đặc biệt tại Nga, Trung Á, châu Phi… Rõ ràng, sự phát triển để vươn lên với vai trò cường quốc kinh tế toàn cầu của Trung Quốc có phần đóng góp rất quan trọng của hoạt động ĐTTTRNN.[3]
3. Quy định và việc triển khai “phát triển bền vững” trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc
Trước đây, trong suốt quá trình cải cách kinh tế diễn ra từ cuối thập niên 1970, DN Trung Quốc cho dù dưới hình thức sở hữu nào cũng coi như “được phép” xem nhẹ trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường để tập trung theo đuổi lợi ích kinh tế.[4]
Thời gian sau đó, chi phí cao của việc khai thác không hạn chế tài nguyên thiên nhiên trong nước đã buộc chính quyền trung ương Trung Quốc phải định hướng lại chiến lược hiện đại hóa đất nước ưu tiên cho phát triển môi trường bền vững. Từ đó, vấn đề “trách nhiệm xã hội”, “trách nhiệm môi trường” của DN được đặt ra. Điều này tạo ra một khái niệm “hài hòa xã hội” – sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Từ khi xây dựng chính sách “Hướng ra toàn cầu”, Trung Quốc đã nỗ lực cải thiện các quy định trong nước và quốc tế để tiến hành kinh doanh, cũng như ban hành các tiêu chuẩn, định mức nhằm cân bằng tăng trưởng kinh tế song song với bảo vệ các quyền lợi xã hội và bảo vệ môi trường.
3.1. Một số quy định về “phát triển bền vững” của Trung Quốc
Các quy định, biện pháp điều chỉnh việc thực hiện trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường trong hoạt động ĐTTTRNN của Trung Quốc có thể được chia thành hai nhóm.
a. Quy định trong luật, chính sách của nhà nước
Nhà nước Trung Quốc đã rà soát lại khuôn khổ chính sách pháp lý hiện hành để thay đổi theo hướng “phát triển bền vững”, áp dụng các chính sách mang tính sáng kiến như: “Ba dự án xanh”, nhằm thúc đẩy “tiêu dùng xanh, thị trường xanh” và nâng cao “chất lượng sản phẩm”. Luật Đánh giá tác động môi trường năm 2003là biểu hiện của cách tiếp cận chủ động hơn của Trung Quốc nhằm giải quyết các vấn đề môi trường.[5] Bên cạnh đó Luật Công ty năm 2005 được sửa đổi để quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.[6] Vấn đề “phát triển bền vững” trong nước và quốc tế còn được đề cập trong những văn bản sau:
– Hướng dẫn chi tiết của chính phủ trung ương Trung Quốc đối với các doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội (2007):[7] văn bản này nêu rõ các biện pháp cụ thể mà các DNNN Trung Quốc (trong nước và ĐTTTRNN phải thực hiện bao gồm: (i) thiết lập nhận thức về trách nhiệm xã hội của công ty; (ii) tạo ra hệ thống và cơ chế cho việc thực thi trách nhiệm này; (iii) xây dựng hệ thống thống tin và xử lý thông tin; (iv) chia sẻ kinh nghiệm trong và ngoài nước.[8]
– Các biện pháp quản lý đầu tư nước ngoài:[9] theo Điều 3 của văn bản này, các doanh nghiệp có vốn đầu tư ra nước ngoài phải nghiêm túc tìm hiểu và tuân thủ pháp luật, quy định, quy tắc, chính sách quốc gia tiếp nhận đầu tư, theo nguyên tắc cùng có lợi.
– Chín nguyên tắc về khuyến khích và chuẩn hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài: vào năm 2006, Ủy ban Nhà nước về đầu tư của Trung Quốc đã ban hành văn bản “Chín nguyên tắc về khuyến khích và chuẩn hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài” (Nine Principles on Encouraging and Standardizing Outward Investment) với những nội dung nhằm khuyến khích hơn nữa các DN Trung Quốc tích cực tham gia hoạt động ĐTTTRNN phù hợp với thời kỳ tự do hóa thương mại toàn cầu, trong đó nguyên tắc thứ năm của văn bản này quy định: “Tuân thủ pháp luật và các quy định của địa phương, tôn trọng việc công khai minh bạch các dự án, hợp đồng, phải cam kết và thực hiện trách nhiệm xã hội cần thiết để bảo vệ quyền lợi chính đáng và lợi ích của người lao động địa phương, chú trọng bảo vệ tài nguyên môi trường, chăm sóc và hỗ trợ các cộng đồng địa phương và sinh kế của người dân.[10] Ngoài ra nguyên tắc thứ chín của văn bản này cũng ghi nhận việc: “Tạo ra một môi trường thân thiện cho dư luận, đi theo con đường của chính sách phát triển hòa bình, giữ gìn hình ảnh tốt đẹp của đất nước và danh tiếng của công ty”.[11] Ngoài mục tiêu khuyến khích hoạt động ĐTTTRNN, văn bản trên còn thể hiện nội dung tăng cường các biện pháp quản lý có hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc.
b. Quy định của các tổ chức, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tài trợ vốn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Các tổ chức, DN có vai trò quan trọng trong tài trợ vốn cũng áp dụng “trách nhiệm xã hội của công ty” (Corporate Social Responsibility – CSR) đối với các DN Trung Quốc trong nước và các DN Trung Quốc ĐTTTRNN:
– Cả hai sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và Thẩm Quyến đã áp dụng các hướng dẫn CSR nhằm thúc đẩy các công ty Trung Quốc thực hiện trách nhiệm xã hội. Mặc dù hệ thống báo cáo CSR không bắt buộc, nó thể hiện các ý tưởng về trách nhiệm xã hội thong qua quy định về chi phí xã hội và chi phí môi trường của công ty. Những nỗ lực tích hợp các khái niệm CSR vào khuôn khổ chính sách và pháp lý chứng tỏ vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc đảm bảo hoạt động các DN Trung Quốc phù hợp lợi ích quốc gia, cụ thể Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải cũng có 2 bản hướng dẫn liên quan đến trách nhiệm xã hội[12] và trách nhiệm môi trường[13] đối với tất cả các công ty niêm yết nhằm đạt được sự phát triển bền vững (được ban hành vào tháng 5/2008) Sở giao dịch chứng khoán Thẩm Quyến cũng ban hành Quy định về trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết ở Điều 2, Điều 3 và Chương 5. Các sở này đưa ra yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết phải có “trách nhiệm xã hội và môi trường tự nhiên nhằm hài hòa mục tiêu phát triển kinh tế với các mục tiêu xã hội và môi trường và theo đó các hành vi được xem là vi phạm chính sách bảo vệ môi trường phải được khắc phục ngay lập tức”.[14] Ngoài ra, các công ty niêm yết cũng phải công bố Bản báo cáo trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường của mình trong đó nêu rõ các biện pháp cải thiện cụ thể (Theo điều 36 của bản quy định nói trên).
– Hiệp hội Ngân hàng Trung Quốc đưa ra hướng dẫn đối với tất cả các định chế tài chính trong nước.[15] Theo đó, các định chế tài chính cần : “xây dựng chiến lược kinh doanh, chính sách, thủ tục, và tối ưu hóa phân bổ các nguồn lực để hỗ trợ sự phát triển bền vững kinh tế xã hội và môi trường, theo các chính sách công nghiệp quốc gia và chính sách môi trường của điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và nguyên tắc ngành” (Điều 16) và: “hỗ trợ khách hàng (DN) để tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường thông qua tín dụng và các công cụ tài chính khác, hướng dẫn và khuyến khích khách hàng để nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội và tích cực có những hành động; tập trung đào tạo môi trường cho các khách hàng, trong đó nội dung cần bao gồm nhưng không giới hạn trong các hoạt động cụ thể của quy trình đánh giá tác động môi trường, tổ chức tài chính nên ủng hộ cho điều tra trên trang web và kiểm toán độc lập các tác động môi trường của các dự án tài trợ, mà không chỉ dựa trên báo cáo của khách hàng”(Điều 20 bản hướng dẫn).
– Hướng dẫn Xanh của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc:[16] Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các DN Trung Quốc ĐTTTRNN nhằm góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển bền vững, thúc đẩy kinh tế, xã hội, phát triển môi trường và kiểm soát hiệu quả rủi ro tín dụng. Theo bản hướng dẫn có tính ràng buộc với các DN vay vốn của ngân hàng này, ngoài lợi ích kinh tế thì những lợi ích xã hội và tác động đến môi trường là những yếu tố được quan tâm không kém khi tiến hành cho vay, tài trợ hoạt động đầu tư. Theo hướng dẫn này, một báo cáo đầy đủ về đánh giá tác động môi trường (Environmental Impact Assessment (EIA))phải được thực hiện trước khi vay và cũng được sử dụng để kiểm tra, giám sát sau khi vay. Ngoài ra, quy định tại Điều 12 của bản hướng dẫn này cũng nêu rõ việc “Chính sách và tiêu chuẩn môi trường của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở để đánh giá và phải được tuân thủ. Ngoài ra, khi nước tiếp nhận đầu tư chưa có một cơ chế bảo vệ môi trường hoàn chỉnh thì chúng ta (các DN Trung Quốc ĐTTTRNN) nên tham khảo tiêu chuẩn của nước ta (Trung Quốc) hoặc thông lệ quốc tế”. Đặc biệt, Điều 19 quy định nội dung:“Đối với các dự án đang được xây dựng hoặc đang hoạt động mà để xảy ra vấn đề môi trường và xã hội nghiêm trọng, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc có quyền yêu cầu người vay hoặc chủ dự án có biện pháp kịp thời để loại bỏ những tác động này. Nếu họ không loại bỏ các tác động của các dự án, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc có quyền ngừng giải ngân các khoản vay lại và yêu cầu thu hồi vốn đầu của khoản vay, phù hợp với hợp đồng cho vay”.
Bằng một số các quy định nêu trên, hệ thống chính sách và khuyến nghị về “phát triển bền vững” ĐTTTRNN đã hình thành và ngày càng được bổ sung nhằm thúc đẩy việc tôn trọng trách nhiệm xã hội, môi trường và đầu tư bền vững. Tuy nhiên, do các CSR không ràng buộc về mặt pháp lý, nên nó thật sự thiếu cơ chế để đảm bảo việc thực thi. Hơn nữa, thực tế, việc điều chỉnh hành vi các công ty trong nước tại Trung Quốc được xem là đã “quá tải”, vì thế thực hiện việc giám sát trên phạm vi quốc tế rõ ràng khó khăn hơn rất nhiều.
3.2. Đánh giá chung việc triển khai “phát triển bền vững” trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc
Những năm gần đây, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và cũng để giải cơn khát nguồn năng lượng, nguyên liệu, thị trường, Trung Quốc tăng cường đầu tư mạnh ra nước ngoài. Các tập đoàn nhà nước và tư nhân của nước này đã tăng cường tìm kiếm các thị trường mới. Tuy nhiên trong quá trình “hướng ra toàn cầu”, các DN đầu tư Trung Quốc cũng như các nhà đầu tư khác luôn đối diện với các áp lực ngày càng tăng để đáp ứng yêu cầu của các bên liên quan về những tiêu chuẩn môi trường và xã hội.
ĐTTTRNN của Trung Quốc ở châu Phi được xem như mô hình giao lưu kinh tế của châu Phi với Trung Quốc: xuất khẩu nguyên liệu để đổi lấy hàng hóa sản xuất – một mô hình thương mại được đánh giá là có lợi cho Trung Quốc.[17] Hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc đang “tràn ngập” châu Phi trong khi dầu, gỗ, đồng, kim cương và các nguyên liệu khác được xuất từ châu Phi sang Trung Quốc. Mô hình này được một số nhà nghiên cứu cho rằng mang dấu hiệu của một “chủ nghĩa thực dân kiểu mới”. Những lĩnh vực mà DN Trung Quốc tập trung đầu tư nhiều nhất ở châu Phi là khai thác dầu mỏ và khoáng sản. Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ các dự án này dưới các hình thức viện trợ, hợp tác kinh tế và thương mại. Trung Quốc và các quốc gia châu Phi cũng tổ chức Diễn đàn hợp tác giữa châu Phi và Trung Quốc 3 năm/ 1 lần. Diễn đàn này thúc đẩy hợp tác chặt chẽ hơn về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời nêu bật cơ chế hỗ trợ giúp DN Trung Quốc xâm nhập thị trường châu Phi, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường tại quốc gia sở tại. Chiến lược thâm nhập thị trường khai thác khoáng sản châu Phi của Trung Quốc không chỉ hạn chế trong việc đàm phán các hợp đồng nhà nước mà được mở rộng ra các hình thức đầu tư mới – chẳng hạn tham gia vào các liên doanh quốc tế với các công ty khai thác mỏ tầm cỡ quốc tế và mua lại các công ty khai thác mỏ lớn. Những công ty này áp dụng các tiêu chuẩn xã hội và môi trường tương đối cao, từ đó thúc đẩy các nhà đầu tư Trung Quốc cải thiện việc nâng cao hiệu quả môi trường và xã hội của họ. Tuy nhiên, nhìn chung, các công ty Trung Quốc vẫn bị cho là vẫn không tuân thủ đầy đủ các quy định, chuẩn mực địa phương và quốc tế về khai thác bền vững. Điều này có thể ảnh hưởng đến các kế hoạch kinh doanh về dài hạn và ổn định của DN Trung Quốc tại khu vực này.[18]
Trong khu vực Đông Á, Trung Quốc luôn quan tâm đến việc thiết lập mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các quốc gia láng giềng (Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam) thông qua hoạt động đầu tư vào lĩnh vực khai thác mỏ, đồn điền cao su, gỗ, cũng như thủy điện. Kể từ khi khai thác gỗ bị cấm ở Trung Quốc vào năm 1998, các công ty Trung Quốc đã tham gia mạnh mẽ vào quá trình khai thác gỗ tại Myanmar, sau đó là Campuchia. Các DN Trung Quốc được cấp phép khai thác gỗ nhằm phát triển đất rừng thành các đồn điền gỗ trồng phục vụ ngành công nghiệp bột giấy, tuy nhiên họ bị phản đối bởi cộng đồng xã hội địa phương.
Trên cơ sở phân tích trên, có thể đưa ra một số đánh giá chung cho việc triển khai chính sách “phát triển bền vững” của các DN Trung Quốc ĐTTTRNN như sau:
– Chính phủ Trung Quốc đã có những nỗ lực nhằm năng cao uy tín đầu tư quốc gia, ban hành các chính sách và biện pháp nhằm tăng cường giám sát thực tế đầu tư của DN. Các chính sách và biện pháp này thúc đẩy các DN có trách nhiệm cao hơn hướng đến phát triển bền vững tại các thị trường đầu tư. Tuy nhiên, về góc độ thực thi, để những quy định trên đến được với các DN ĐTTTRNN không phải đơn giản. Mức độ tác động của các quy định lên hoạt động cụ thể của các DN khá hạn chế do sự đa dạng của các công ty, sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức và cơ chế quản trị, quyền tự chủ… cũng như sự quản lý lỏng lẻo, các hành vi tiêu cực, tại các quốc gia sở tại. Điều này làm vô hiệu hóa hoặc suy giảm các mục tiêu phát triển bền vững đã được chính phủ Trung Quốc đặt ra.
– ĐTTTRNN của DN Trung Quốc có chú trọng đến các quốc gia láng giềng – vốn có chung đường biên giới và ít nhiều có những chia sẻ về văn hóa. Tuy nhiên, một số hành vi của các công ty Trung Quốc ở các quốc gia này đã gây bất lợi cho hình ảnh về một quốc gia đầu tư có trách nhiệm. Tuy tăng mạnh về số lượng và giá trị đầu tư, các DN Trung Quốc còn thiếu kinh nghiệm hoặc vô tình hay cố ý thiếu sự quan tâm cần thiết trong việc thực thi trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường cũng như chưa như có những động thái nhanh chóng, tương xứng để bồi thường khi có những sự cố do quá trình đầu tư sản xuất của mình gây ra.[19] Để duy trì hoạt động đầu tư lâu dài cho mục đích lợi nhuận của mình, các DN Trung Quốc cần nghiêm túc tiến hành các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình ĐTTTRNN.
– Khi tiếp cận thị trường đầu tư, DN Trung Quốc thường ít tham vấn cộng đồng địa phương, thay vào đó chỉ chú trọng vào các mối quan hệ với các lãnh đạo chính trị của các quốc gia này. Các DN Trung Quốc cần xây dựng được một kênh thông tin hiệu quả với các cơ quan quản lý, các tổ chức xã hội và các bên liên quan khác tại quốc gia tiếp nhận đầu tư để không những đảm bảo mục tiêu kinh tế mà còn đảm bảo phúc lợi của cộng đồng địa phương và bảo vệ các hệ môi trường sinh thái liên quan.
4. Một số kiến nghị cho Việt Nam với tư cách quốc gia tiếp nhận đầu tư
Trong những năm gần đây, sự biến đổi tiêu cực một cách bất thường của môi trường đã đe dọa sự tồn tại và phát triển của của tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh như vậy, tại Việt Nam, sự phát triển của các hoạt động kinh tế, đầu tư với công nghệ lạc hậu và không được kiểm sát tốt, ý thức và văn hóa tuân thủ kém dễ dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu theo hướng nghiêm trọng hơn, sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường sống của con người và động thực vật. Đặt trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
– Hoạt động đầu tư nước ngoài đã và đang đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Sau những năm tháng đầu tiên hội nhập, kêu gọi mạnh mẽ đầu tư hiện nay chúng ta phải quan tâm đến các hoạt động đầu tư với quy trình và công nghệ mới nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững. Dĩ nhiên, không phải tất cả các hoạt động đầu tư đều nhắm đến mục tiêu hoặc có các điều kiện để phát triển bền vững, do vậy pháp luật, chính sách kêu gọi và cơ chế giám sát đầu tư nhằm lựa chọn các dòng đầu tư bền vững có tác động tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Đề xuất này đòi hỏi thiết lập một cơ chế ưu đãi nhưng không kém phần nghiêm ngặt đối với hoạt động đầu tư, đảm bảo việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài nhưng cũng mạnh dạn từ chối các dự án chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, mang tính chất đốt cháy giai đoạn, bằng mọi giá… mà bỏ qua hoặc có biện pháp đối phó với những lợi ích, mục tiêu xã hội, môi trường.
– “Phát triển bền vững” đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ĐTTTRNN, nhưng chúng tôi khó có thể tìm thấy nội dung quy định này trong bất kỳ hiệp định ưu đãi và khuyến khích đầu tư nào mà Việt Nam ký kết với các quốc gia khác. Như vậy, với vai trò là một nước tiếp nhận đầu tư, có thể dễ dàng chịu tác động tiêu cực đối với các hành vi của các nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận, Việt Nam nên tiến hành bổ sung quy định về phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh về trách nhiệm xã hội và trách nhiệm môi trường của các nhà đầu tư trong các hiệp định này.[20]
– Trong Luật Đầu tư năm 2014,[21] nội dung “phát triển bền vững” chỉ được nhắc đến 1 lần duy nhất trong khoản 4, Điều 5 liên quan đến “chính sách đầu tư”.[22] Điều này theo chúng tôi là ít và lại rất chung chung, khó khả thi. Hơn nữa, trong vấn đề quản lý nhà nước về đầu tư, nội dung về giám sát, đánh giá đầu tư chủ yếu chỉ liên quan đến việc buộc các nhà đầu tư báo cáo, tức là chỉ đáp ứng việc quản lý, giám sát “trên giấy tờ”, chắc chắn sẽ dẫn đến việc quản lý không hiệu quả. Theo chúng tôi, nên áp dụng “công thức” 3P cho việc quản lý này, bao gồm: (i) quản lý trên giấy tờ (Paper check); (ii) quản lý thông qua phỏng vấn trực tiếp (People interview) và (iii) điều tra thực tế (Practice investigate) nhằm giúp việc quản lý, giám sát, xử lý hoạt động đầu tư hiệu quả hơn.
– Đối với các nhà đầu tư Trung Quốc, mặc dù quốc gia này đang thi hành chính sách tự do hóa đầu tư, một chế độ giám sát hoạt động đầu tư của Trung Quốc và ĐTTTRNN vẫn hoạt động thông qua hệ thống các cơ quan chính phủ, Ủy ban Cải cách và phát triển quốc gia, Bộ Thương mại và ngay cả các tổ chức như ngân hàng, sở giao dịch chứng khoán… Các cơ quan này thiết lập quy định đảm bảo ĐTTTRNN góp phần vào phát triển kinh tế của Trung Quốc mà không làm tổn hại đến quan hệ với các quốc gia sở tại, tuân thủ quy định pháp luật của Trung Quốc cũng như các nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần thiết lập một cơ chế cung cấp thông tin về hoạt động, các vụ việc, sự cố… của DN đầu tư Trung Quốc tại Việt Nam cho các cơ quan này. Điều này tạo ra sức ép đối với các nhà đầu tư Trung Quốc trước các cơ quan, tổ chức của quốc gia họ.
– Nếu có xảy ra sự cố môi trường, cần nhanh chóng điều tra tìm nguyên nhân. Nếu xác định được nguyên nhân bắt nguồn từ hoạt động đầu tư của DN, cần đánh giá, cân nhắc các biện pháp tác động nhằm khắc phục hậu quả nhanh nhất, hiệu quả nhất giảm thiểu tác hại cho môi trường và cuộc sống người dân. Ngoài ra, cần sử dụng sức mạnh pháp lý, dư luận trong nước đối với hành vi vi phạm về trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường, hủy hoại mục tiêu phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước.
Kết luận
Trong tình hình chung hiện nay, hệ thống các chính sách, quy định pháp lý của các quốc gia vẫn là phương tiện chính đảm bảo mục tiêu phát triển quốc gia và tăng trưởng kinh tế cũng như khả năng tiếp cận lâu bền nguồn tài nguyên, hài hòa hóa các quan hệ xã hội. Ở cấp độ DN, phát triển bền vững nhằm hài hòa tất cả các lợi ích cũng là mục tiêu hàng đầu mang tính sống còn. Tuy nhiên, không phải DN đầu tư nước ngoài nào cũng thấm nhuần mục tiêu này. Điều này càng làm nổi bật vai trò của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư trong việc gia tăng hiệu quả các chính sách và biện pháp quản lý, khuyến khích, giám sát hoạt động của các DN đầu tư nước ngoài trong vấn đề “phát triển bền vững”.
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, Phó giám đốc Trung tâm Đảm bảo chất lượng và phương pháp giảng dạy, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
[1] Khái niệm do chúng tôi xây dựng.
[2] Giải thích chi tiết hơn về khái niệm này, Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (World Commission on Environment and Development – còn có tên gọi là Ủy ban Brundtland) vào năm 1987 đã đưa ra một nội dung thường được trích dẫn nhất trong Bản báo cáo “Tương lai chung của chúng ta (Our common future)” như sau: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng nhu cầu riêng của họ, nội dung này được thể hiện trong hai khái niệm chính: (i) các khái niệm về nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu thiết yếu của người nghèo trên thế giới, mà ưu tiên hàng đầu nên được đưa ra; và (ii) các khái niệm về sự hạn chế của tình trạng công nghệ và sự tổ chức xã hội áp đặt lên khả năng của môi trường để đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai”. Xem https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t_tri%E1%BB%83n_b%E1%BB%81n_v%E1%BB%AFng, ngày truy cập 10/6/2016.
[3] Tổng hợp từ tài liệu tại địa chỉ trang web: http://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/ey-china-outbound-investment-report-en/$FILE/ey-china-outbound-investment-report-en.pdf, ngày truy cập 10/6/2016.
[4] Tài liệu Going Global responsibly, tr. 6, http://www.academia.edu/3813979/Going_Global_Responsibly_Chinas_Strategies_Towards_Sustainable_Overseas_Investments, ngày truy cập 10/6/2016.
[5] Tham khảo Điều 1 văn bản này tại https://chinaenvironment.files.wordpress.com/2008/03/environmental-impact-assessment-law.doc, truy cập 10/6/2016.
[6] Tham khảo điều 5 của văn bản này, truy cập tại,.http://www.acga-asia.org/public/files/China_Company_Law_Amended_Oct2005.pdf, truy cập ngày 10/6/2016.
[7] Guidelines to the State-owned Enterprises Directly Under the Central Government on Fulfilling Corporate SocialResponsibilities.
[8] .Xem.http://csr2.mofcom.gov.cn/aarticle/laws/201008/20100807067057.html, ngày truy cập 10/6/2016.
[9] Tham khảo Measures for Overseas Investment Management (MOFCOM, March 2009).
[10] Nguyên văn: “Complying with local laws and regulations, and adhering to fair, transparent public works project contracts, making a commitment to and fulfilling the necessary social responsibility to protect the legitimate rights and interests of local employees, paying attention to environmental resource protection, caring for and supporting the local community and people’s livelihood.”
[11] Nguyên văn: “Creating a friendly environment for public opinion, walking the road of peaceful development policy, and preserving our good image and a good corporate reputation.”
[12] Tham khảo http://stock.jrj.com.cn/2008-05-14/000003642081.shtml, ngày truy cập 10/6/2016.
[13] Tham khảo http://www.chinalawedu.com/news/1200/21829/21836/21957/21964/2008/5/li7617827211915800212348-0.htm, ngày truy cập 10/6/2016.
[14] Quy định trên trang web của sở chứng khoán Thâm Quyến: http://www.szse.cn/main/en/rulseandregulations/, ngày truy cập 10/6/2016.
[15] Tham khảo https://www.internationalrivers.org/files/ChinaBankingAssociation.pdf, ngày truy cập 10/6/2016.
[16] Văn bản có tên gọi tiếng Anh là Guidelines for Environmental and Social Impact Assessments of the China Export and Import Bank’s (China Exim Bank) Loan Projects, tham khảo: https://www.internationalrivers.org/resources/guidelines-for-environmental-and-social-impact-assessments-of-the-china-export-and-import, ngày truy cập 10/6/2016.
[17] Tài liệu Going Global responsibly, tr.11. Tham khảo:.http://www.academia.edu/3813979/Going_Global_Responsibly_Chinas_Strategies_Towards_Sustainable_Overseas_Investments, ngày truy cập 10/6/2016.
[18] Bài viết: “Xung đột văn hóa thách thức các công ty Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài”. Nguồn http://english.peopledaily.com.cn/200606/14/eng20060614_273816.html, ngày truy cập 10/6/2016.
[19] Một số vụ phản đối phổ biến của quốc gia sở tại đối với nhà đầu tư Trung Quốc có liên quan đến vấn đề môi trường có thể kể đến: Vụ dự án khai thác than và tài nguyên nước của nhà đầu tư Trung Quốc China Shenhua Energy Company’s Watermark bị phản đối ở Úc, vụ đập Myitsone ở Myanma tác hại nghiêm trọng đến môi trường và gây ngập lụt, vụ nhà đấu tư Trung Quốc phá rừng Amazon ở Brazil… Tham khảo tài liệu tại địa chỉ web https://www.iisd.org/sites/default/files/publications/sustainability-impacts-chinese-outward-direct-investment-literature-review.pdf, trang 31, ngày truy cập 10/6/2016.
[20] Về cơ sở pháp lý, chẳng hạn Điều 11 Hiệp định đầu tư song phương Việt Nam – Trung Quốc, có quy định: Những người đại diện của hai Bên ký kết sẽ tổ chức các cuộc họp thường xuyên với mục đích như sau: (i) Xem xét việc thi hành Hiệp định này; (ii) Trao đổi thông tin pháp lý và những cơ hội đầu tư; (iii) Giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc đầu tư; (iv) Đưa ra những đề nghị về khuyến khích đầu tư; (v) Nghiên cứu các vấn đề khác liên quan đến đầu tư.
[21] http://www.moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=30315,.ngày truy cập 10/6/2016.
[22] Tham khảo điều 5.4: “Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế”.
Chia sẻ bởi: Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam
Tác giả: Vũ Duy Cương – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05(99)/2016 – 2016, Trang 20-27