Tư cách tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác (chủ thể không có tư cách pháp nhân) theo Bộ luật Dân sự 2015
TÓM TẮT
Bộ luật Dân sự năm 2015 có nhiều quy định mang tính đột phá, tiệm cận với các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc triển khai thi hành bộ luật này làm phát sinh một số cách hiểu và áp dụng chưa thống nhất, trong đó có liên quan đến tư cách tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. Bài viết phân tích 2 cách hiểu khác nhau về vấn đề này và ủng hộ cách hiểu quy định tại Điều 101 Bộ luật Dân sự 2015 theo hướng hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là thực thể pháp lý, có quyền tham gia quan hệ dân sự. Cách hiểu như vậy mới phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường và đúng tinh thần của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Xem thêm về “Hộ gia đình”
- Về hạn mức đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân theo dự thảo Luật Đất đai sửa đổi – ThS. Nguyễn Thị Kiều Oanh
- Bàn về tư cách chủ thể hộ gia đình và tổ hợp tác trong Bộ luật Dân sự 2005 – TS. Bùi Xuân Hải
Về nguyên tắc, tính pháp quyền đòi hỏi quy định trong một luật phải được hiểu và áp dụng một cách thống nhất không chỉ trong nội tại của chính luật đó mà ngay cả trong hệ thống pháp luật mà luật này là một bộ phận cấu thành. Tuy nhiên, nguy cơ hiểu và áp dụng luật một cách không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau, càng trở nên hiện hữu đối với một bộ luật lớn trong hệ thống pháp luật quốc gia như Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015), được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2017.
Chính thức bắt đầu cho một cách hiểu quy định của BLDS năm 2015 không chỉ đang gây tranh luận trái chiều trong giới nghiên cứu, áp dụng luật và đối tượng bị tác động mà còn có thể tạo ra những xung đột trong hệ thống pháp luật với hệ quả chưa lường trước được có lẽ là hai thông tư của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.[1] Trong các thông tư này, đối tượng mở tài khoản thanh toán, khách hàng vay vốn được hiểu và giới hạn chỉ là cá nhân và pháp nhân; các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải chuyển đổi tài khoản thanh toán của khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân đã mở trước đây sang hình thức tài khoản thanh toán cá nhân hoặc tài khoản thanh toán chung (của các cá nhân).[2] Quy định tại các thông tư này cho thấy, Ngân hàng Nhà nước không cho phép hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia các giao dịch liên quan mà chỉ cho cá nhân thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia và mới là chủ thể của quan hệ dân sự tương ứng. Các cơ quan, tổ chức có liên quan như tổ chức tín dụng, văn phòng đăng ký đất đai, văn phòng công chứng… đang đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh từ các quy định đó. Có thể thấy, lý do của các thay đổi này là việc triển khai thi hành quy định của BLDS năm 2015, theo đó, “Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân” trong các quan hệ dân sự (Điều 1); và “trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” (Điều 101).
Tuy nhiên, cách hiểu và triển khai thi hành quy định tại Điều 101 (trong bối cảnh Điều 1) BLDS năm 2015 như vậy đang tạo ra xung đột với hàng loạt quy định pháp luật không chỉ trong lĩnh vực pháp luật dân sự mà cả trong lĩnh vực pháp luật hành chính – nhà nước và gây xáo trộn các giao dịch dân sự trong xã hội. Câu hỏi lớn được đặt ra trong tình huống này là: liệu BLDS năm 2015, nhất là thông qua quy định tại Điều 101, đang loại hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân khỏi quan hệ dân sự hay quy định này chỉ nhằm cá thể hóa các cá nhân chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch mà họ xác lập, thực hiện nhân danh hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân? Việc hiểu và áp dụng điều luật này theo các hướng khác nhau đều sẽ có những tác động nhất định đến sự “vận hành” của hệ thống pháp luật và sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bởi vậy, một sự giải thích pháp luật[3] trong trường hợp này là đặc biệt cần thiết để có một cách hiểu chung về tinh thần pháp luật chứa đựng trong điều luật này cũng như các điều luật liên quan trong thực thi BLDS năm 2015. Bài viết phân tích 2 cách hiểu khác nhau về vấn đề này nhằm cung cấp các luận cứ để khẳng định cách hiểu quy định tại Điều 101 BLDS năm 2015 theo hướng hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là thực thể pháp lý tham gia quan hệ dân sự mới phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường và đúng tinh thần của bộ luật này.
1. Quan điểm hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân không còn là chủ thể của quan hệ dân sự, không thể tham gia quan hệ dân sự
Đến thời điểm hiện tại, chưa có nhiều bài viết nghiên cứu trình bày cách hiểu về quy định tại Điều 101 và các điều khoản khác liên quan của BLDS năm 2015. Các cơ sở đào tạo luật đều đang trong giai đoạn biên soạn giáo trình pháp luật cập nhật theo bộ luật này; một công trình bình luận khoa học BLDS năm 2015 của Bộ Tư pháp – cơ quan chủ trì soạn thảo bộ luật này – cũng đang trong quá trình biên soạn.[4] Tuy nhiên, trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các thông tư của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước như được đề cập trên đây là sự thể hiện một cách rõ ràng nhất quan điểm, theo đó, (các) cá nhân thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân chứ không phải hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể của quan hệ dân sự.
Điều đó thể hiện trước hết ở quy định sửa đổi về đối tượng mở tài khoản thanh toán[5] tại ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Thông tư số 32/2016/TT-NHNN, trong đó chỉ đề cập hai loại chủ thể pháp luật là “cá nhân” và “pháp nhân” thuộc đối tượng mở tài khoản thanh toán. Trong khi đó, theo quy định cũ, bên cạnh “cá nhân”, đối tượng mở tài khoản thanh toán không chỉ là “pháp nhân”, mà còn cả “tổ chức được thành lập, hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm: tổ chức là pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể và các tổ chức khác được mở tài khoản tại ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật”.
Quy định này không trao cho (các) cá nhân quyền lựa chọn mở tài khoản đứng tên cá nhân mình với tư cách là chủ tài khoản hay mở tài khoản dưới tên tổ chức mà mình là chủ sở hữu (như DNTN) hay là thành viên (như hộ kinh doanh)… Bởi vì, thông tư này cũng còn có quy định chuyển tiếp,[6] theo đó ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải rà soát hồ sơ, hợp đồng mở và sử dụng tài khoản thanh toán của khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được giao kết trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực và, trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Thông tư có hiệu lực, thực hiện ký lại hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán để chuyển đổi sang hình thức tài khoản thanh toán của cá nhân hoặc tài khoản thanh toán chung hoặc đóng tài khoản (nếu khách hàng có yêu cầu). Sau thời hạn này, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện đóng tài khoản đối với những tài khoản thanh toán của khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân chưa hoàn thành việc chuyển đổi hình thức tài khoản. Như vậy, khi thực hiện Thông tư số 32/2016/TT-NHNN, sẽ không còn tài khoản thanh toán mà chủ tài khoản là hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (như hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư…) nữa.
Bên cạnh đó, theo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng trong Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng bây giờ chỉ còn là cá nhân và pháp nhân.[7] Như vậy, hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (như DNTN) không còn là “khách hàng” vay vốn của tổ chức tín dụng như quy định trước đây nữa,[8] mặc dù xét về mục đích vay, Ngân hàng Nhà nước vẫn giải thích “cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh” bao gồm cho vay nhằm đáp ứng “nhu cầu vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân mà cá nhân đó là chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân”.[9]
Ngoài các quy định của Ngân hàng Nhà nước như đề cập trên đây, cách hiểu quy định tại Điều 101 BLDS năm 2015 nói riêng và cả BLDS năm 2015 nói chung theo hướng hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân không còn là chủ thể của quan hệ dân sự cũng được một số học giả thể hiện trong các bình luận khoa học về BLDS năm 2015 của mình.[10]
Cách hiểu quy định tại Điều 101 BLDS năm 2015 thể hiện qua các quy định của Ngân hàng Nhà nước hay các bình luận khoa học như trên là theo hướng tuyệt đối hóa chủ thể của quan hệ dân sự chỉ còn là cá nhân và pháp nhân; theo đó, hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân không còn là chủ thể của quan hệ dân sự, không thể tham gia quan hệ dân sự.
Xem thêm về “Pháp nhân”
- Những điểm mới của chế định pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2015 và một số vấn đề liên quan – ThS. Trần Tuấn Vũ
- Bản chất của doanh nghiệp xã hội và cách phân loại pháp nhân theo Bộ luật Dân sự 2015 – ThS. Lê Nhật Bảo
- Bàn về đổi mới chế định pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2005 – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Nguyễn Thị Xuân
2. Quan điểm hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân vẫn là thực thể pháp lý tham gia quan hệ dân sự thông qua hành vi xác lập giao dịch dân sự của các cá nhân thành viên
Theo quan điểm này, quy định tại Điều 101 cũng như BLDS năm 2015 nói chung cần được hiểu theo hướng hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là thực thể pháp lý, thậm chí là chủ thể đặc thù, tham gia quan hệ dân sự thông qua hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của các cá nhân thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân đó. Cách hiểu theo hướng như vậy không chỉ phù hợp về mặt ngữ nghĩa của quy định tại điều luật này, tinh thần của BLDS năm 2015, lịch sử lập pháp mà còn bảo đảm đạt được mục đích của điều luật, bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể:
Thứ nhất, về mặt ngữ nghĩa của Điều 101 BLDS năm 2015, vế câu “trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự” cho thấy, chính hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân “tham gia quan hệ dân sự”; và để “tham gia quan hệ dân sự” thì chúng phải là những thực thể pháp lý (về bản chất cũng là chủ thể) của quan hệ dân sự. Đồng thời, vế câu “thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” cho thấy, thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể thực hiện hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự để thông qua đó đưa các thực thể pháp lý này tham gia (vào) quan hệ dân sự. Như vậy, việc giải thích Điều 101 BLDS năm 2015 theo hướng hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là thực thể pháp lý tham gia quan hệ dân sự thông qua hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của cá nhân thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân đó là phù hợp với ngữ nghĩa của điều luật này. Thêm vào đó, quy định tại khoản 1 Điều 103 BLDS năm 2015, theo đó “nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên”, cũng cho thấy, hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân chính là thực thể pháp lý tham gia quan hệ dân sự.[11]
Về mặt lịch sử lập pháp, Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến Nhân dân và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) cho thấy, về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, cơ bản có 3 loại ý kiến, trong đó, “đa số ý kiến nhất trí với quy định như trong dự thảo Bộ luật, theo đó, chủ thể quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân, pháp nhân, còn về hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì Bộ luật dân sự quy định như là những thực thể pháp lý… Cách quy định này một mặt vẫn thừa nhận hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là những thực thể đang tồn tại trong đời sống xã hội, mặt khác góp phần giải quyết được những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn liên quan đến việc tham gia các quan hệ dân sự của các thực thể này”; và “Chính phủ nhất trí với ý kiến đa số của Nhân dân như đã báo cáo ở trên”.[12] Như vậy, ý kiến đa số của Nhân dân và quan điểm của Chính phủ là thừa nhận hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là những thực thể pháp lý tham gia các quan hệ dân sự chứ không phải là bị loại bỏ hay là bình phong cho thành viên của các thực thể pháp lý đó tham gia vào quan hệ dân sự, mặc dù hành vi xác lập, thực hiện giao dịch của thành viên là vì lợi ích của chính họ.
Xét về mục đích, quy định tại Điều 101 BLDS năm 2015 nhằm cá thể hóa chủ thể chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, bởi vì các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo quy định của BLDS năm 2005 trước đây chủ yếu liên quan việc xác định ai là người chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ giao dịch dân sự nhân danh các chủ thể này.Với quy định tại Điều 101 BLDS năm 2015, những thành viên nào của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tự mình hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự sẽ là người chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ việc xác lập, thực hiện giao dịch nhân danh hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân đó.
Xét trong tính hệ thống của BLDS năm 2015, Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2015 không khẳng định chỉ cá nhân và pháp nhân là chủ thể của quan hệ dân sự. Trong khi đó, chính cấu trúc của BLDS năm 2015 cũng gián tiếp thừa nhận sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự khi đặt tên Chương III là “Cá nhân”, Chương IV là “Pháp nhân”, Chương V là “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự”, Chương VI là “Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự”. Mặt khác, cần lưu ý rằng trong phần “Thừa kế”, lời văn của Điều 609, Điều 613 BLDS năm 2015 đã gián tiếp thừa nhận một số đối tượng khác không phải là cá nhân hay pháp nhân có thể tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người thừa kế. Điều 609 khẳng định “người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”; Điều 613 quy định “trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Thứ hai, xét rộng hơn, trong tính hệ thống, đồng bộ của cả hệ thống pháp luật, nội dung điều luật này không thể phủ nhận tư cách chủ thể pháp luật của tổ chức khác không có tư cách pháp nhân như hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân (DNTN) theo pháp luật doanh nghiệp hay văn phòng luật sư theo pháp luật luật sư cũng như theo pháp luật về thuế và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan. Chính Điều 4 BLDS năm 2015 đã khẳng định bộ luật này là luật chung; luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể vẫn được áp dụng nếu không trái với 5 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 bộ luật này.[13]
DNTN, ngay từ thời kỳ hình thành, trong suốt quá trình phát triển của pháp luật doanh nghiệp và cho tới nay luôn được định nghĩa là một “đơn vị kinh doanh”, “tổ chức kinh tế” hay “tổ chức” và là một loại hình doanh nghiệp,[14] được Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển, được thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật với doanh nghiệp khác. Trong các luật điều chỉnh loại hình DNTN, chỉ duy nhất đạo luật đầu tiên có quy định “trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh”[15] với ý nghĩa cá nhân chủ DNTN là chủ thể của “quyền tự do kinh doanh” và thực hiện quyền này thông qua hình thức tổ chức là DNTN. Còn các luật sau này đều nhìn nhận chính DNTN là chủ thể có quyền và nghĩa vụ với tư cách là một loại hình doanh nghiệp.[16] Thu nhập phát sinh từ hoạt động kinh doanh của DNTN cũng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp;[17] chủ DNTN không chịu thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập phát sinh từ hoạt động của DNTN mà mình là chủ sở hữu. Trong thực tiễn giao dịch dân sự[18] và trong cả quan hệ pháp luật hành chính, DNTN luôn tham gia với tư cách chủ thể, còn chủ DNTN là người đại diện theo pháp luật. Chủ DNTN chỉ tham gia tố tụng trước Trọng tài hoặc Tòa án với tư cách nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.[19] Tư cách chủ thể tố tụng của chủ DNTN xuất phát từ quy định chủ DNTN tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.[20]
Từ quy định của pháp luật về DNTN như đề cập trên đây, quan điểm khoa học về DNTN là một tổ chức kinh tế, một loại hình doanh nghiệp, một chủ thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý đã được xây dựng và duy trì, ngay cả trong các giáo trình luật được cập nhật theo BLDS năm 2015.[21] DNTN không phải là một thực thể pháp lý mơ hồ, khó nhận diện hay nhận dạng. DNTN là một chủ thể pháp luật được khai sinh bởi Giấy chứng nhận đăng ký DNTN được cấp cho chính nó, có mã số doanh nghiệp, có tên doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính và các thông tin về chủ doanh nghiệp.[22] DNTN, “với tư cách một chủ thể kinh doanh độc lập, bình đẳng với mọi chủ thể kinh doanh khác, có thể là một bên tham gia vào các quan hệ đối tác, với người lao động, với cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động”.[23] DNTN không tự động chấm dứt sự tồn tại khi chủ doanh nghiệp chết hay bị tòa án tuyên bố mất tích. DNTN không đồng nghĩa với chủ doanh nghiệp, vì chủ doanh nghiệp có thể bán, cho thuê doanh nghiệp chứ không bán hay cho thuê chính mình.[24]
Theo Luật Luật sư năm 2006, văn phòng luật sư do một luật sư thành lập và làm Trưởng văn phòng được tổ chức và hoạt động theo loại hình DNTN, có tên riêng, có con dấu và tài khoản theo quy định pháp luật.[25] Trong Luật này, tư cách chủ thể của văn phòng luật sư, trách nhiệm tài sản của Trưởng văn phòng luật sư được quy định hoàn toàn tương tự như quy định của các Luật Doanh nghiệp về DNTN.
Riêng đối với hộ kinh doanh, xuất phát từ thực tế đây là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất đơn giản, quy mô nhỏ lẻ, các Luật Doanh nghiệp đều không nhìn nhận nó là một loại hình doanh nghiệp và không trực tiếp điều chỉnh mà giao cho Chính phủ quy định để đảm bảo một chính sách linh hoạt hơn đối với hình thức tổ chức kinh doanh này. Hộ kinh doanh có nhiều điểm khác biệt quan trọng, nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng với DNTN. Bởi vậy, trong các tranh chấp liên quan đến hộ kinh doanh, khi không có các quy định rõ ràng về một số vấn đề pháp lý của hộ kinh doanh, tòa án vẫn áp dụng tương tự quy định về DNTN đối với hộ kinh doanh.[26] Hộ kinh doanh cũng là chủ thể pháp luật được khai sinh bằng Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh với các thông tin về tên, địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, vốn kinh doanh, họ và tên đại diện hộ kinh doanh, danh sách các cá nhân góp vốn thành lập hộ kinh doanh (nếu có).[27] Các vướng mắc trước đây liên quan việc xác định (những) cá nhân nào chịu trách nhiệm tài sản và trong phạm vi nào đối với các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh do Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh trước đây chỉ ghi họ tên người đại diện hộ kinh doanh,[28] nay đã được khắc phục bằng việc thông tin về thành viên hộ kinh doanh được ghi trực tiếp trong Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, bao gồm họ tên, chỗ ở hiện tại, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, số chứng minh nhân dân hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, giá trị và tỉ lệ phần vốn góp.[29] Thực tiễn pháp luật cũng cho thấy hộ kinh doanh luôn tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách chủ thể (ngoại trừ quan hệ pháp luật tố tụng), còn người đại diện hộ kinh doanh là đại diện đương nhiên của hộ kinh doanh trong quan hệ pháp luật đó. Trong học thuật, hộ kinh doanh luôn được khẳng định là chủ thể kinh doanh, chủ thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý, kể cả sau khi BLDS 2015 được ban hành.[30]
Thứ ba, từ góc độ so sánh luật, khẳng định của một số tác giả, theo đó việc quy định “hộ gia đình”, “tổ hợp tác” có tư cách chủ thể là “rất xa lạ so với các BLDS được biết đến trên thế giới”[31] hay “việc chỉ quy định chủ thể quan hệ pháp luật dân sự gồm có cá nhân và pháp nhân là phù hợp với thông lệ quốc tế”[32] là không thực sự chính xác. Đơn cử, Bộ luật Dân sự Đức có quy định về “Gesellschaft”[33] (“công ty”), còn được gọi là “Gesellschaft bürgerlichen Rechts” (“công ty theo luật dân sự” hay “công ty dân luật” với tên viết tắt thường dùng là “GbR”), là một tập hợp nhiều thành viên (có thể bao gồm cá nhân, pháp nhân, hội có đăng ký hay không đăng ký, quỹ, các loại công ty không có tư cách pháp nhân khác như công ty thương mại mở (offene Handelsgesellschaft) hay công ty hợp vốn đơn giản (Kommanditgesellschaft)), nhằm cùng nhau thực hiện một mục đích chung bất kỳ theo phương thức thỏa thuận, đặc biệt thông qua việc đóng góp vốn và công sức theo thỏa thuận. Về tính chất pháp lý, tổ hợp tác theo các BLDS năm 1995, 2005 tương tự như công ty theo luật dân sự trong Bộ luật dân sự Đức.[34] Trước đây, trong giới luật học cũng như tư pháp ở Đức có tranh luận về việc công ty theo luật dân sự này có năng lực pháp luật hay tư cách chủ thể trong giao dịch dân sự hay trong tố tụng hay không. Đến năm 2001, Tòa án tối cao Liên bang Đức thông qua phán quyết của Tòa dân sự số 2[35] đã xác định, công ty theo pháp luật dân sự có năng lực pháp luật (Rechtsfähigkeit) khi nó xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua tham gia vào giao dịch pháp luật; trong phạm vi như vậy nó đồng thời có tư cách đương sự trong tố tụng dân sự; trong chừng mực thành viên công ty chịu trách nhiệm tài sản cá nhân đối với các khoản nợ của công ty thì quan hệ giữa nghĩa vụ của công ty và trách nhiệm của thành viên như quan hệ tương ứng trong công ty thương mại mở, nghĩa là trách nhiệm liên đới. Ngoài ví dụ về việc thừa nhận năng lực pháp luật và tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật của công ty dân sự trong luật dân sự Đức như đề cập trên đây, cũng cần thấy rằng trong các hệ thống pháp luật mà chúng ta biết đến, bên cạnh cá nhân và pháp nhân là các chủ thể pháp luật, các hệ thống pháp luật đó cũng còn điều chỉnh nhiều loại hình tổ chức dân sự khác không có tư cách pháp nhân, nhưng có năng lực pháp luật trong một phạm vi hẹp hơn, bao gồm năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật.[36]
3. Kết luận và đề xuất
Không thể phủ nhận rằng BLDS năm 2015 thực sự có nhiều nội dung mới, mang tính đột phá, tiệm cận thể chế kinh tế thị trường, phục vụ cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.[37] Ngoài ra, một trong những quan điểm chỉ đạo xây dựng BLDS 2015 là “thể chế hóa đầy đủ… những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” và “tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.[38] Vì vậy, việc triển khai thi hành BLDS năm 2015 (trong đó có Điều 101) cần phải đặt trong bối cảnh và tinh thần đó. Trong mọi trường hợp, việc hiểu BLDS năm 2015 theo hướng cản trở sự phát triển của kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là hoàn toàn không phù hợp.
Quy định của BLDS năm 2015 về chủ thể quan hệ pháp luật xét cho cùng là nhằm mục đích đảm bảo được trong mọi giao dịch dân sự đều phải xác định được chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý phát sinh (bên cạnh quyền). Như đã trình bày ở trên, cách hiểu theo hướng tuyệt đối hóa chủ thể của quan hệ dân sự hay giao dịch dân sự chỉ còn là cá nhân và pháp nhân như các Thông tư số 32/2016/TT-NHNN và 39/2016/TT-NHNN là quá máy móc, chưa phù hợp với tinh thần của BLDS năm 2015. Cách hiểu này một mặt có thể dẫn đến phủ nhận quy định khác đi của luật chuyên ngành, làm vô hiệu hóa tư cách chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật thương mại, trong đó có tư cách chủ thể của DNTN và văn phòng luật sư theo pháp luật chuyên ngành về đầu tư, kinh doanh, hoạt động luật sư. Mặt khác, nó còn có thể phá vỡ tính hệ thống, đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện hành, khi các quy định khác đi của luật chuyên ngành nếu không trái với năm nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015 được nêu tại Điều 3 của Bộ luật này thì vẫn phải được áp dụng.
Bên cạnh đó, cách hiểu luật như vậy có thể ảnh hưởng không tốt đến sự tồn tại và tham gia của các thực thể không có tư cách pháp nhân vào phát triển kinh tế – xã hội, thậm chí có thể triệt tiêu dần loại hình DNTN, hộ kinh doanh… Điều này có thể tạo lực cản trong việc thực hiện chủ trương phát triển DNTN ở nước ta, chưa phù hợp với chủ trương, yêu cầu của Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng Khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó: “Có các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp tư nhân” và “Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác…”.
Do đó, chúng tôi ủng hộ cách hiểu quy định tại Điều 101 BLDS năm 2015 và các quy định khác có liên quan của bộ luật này theo hướng hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là thực thể pháp lý có quyền tham gia quan hệ dân sự thông qua hành vi xác lập giao dịch dân sự của các cá nhân thành viên. Như đã lập luận ở Mục 2 bài viết này, việc giải thích theo hướng như vậy phù hợp với ngữ nghĩa của quy định, giúp đạt được mục đích điều chỉnh của luật, đảm bảo tính tương thích và thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam và phù hợp với cả thông lệ quốc tế. Cách hiểu quy định này phù hợp với yêu cầu của Nghị quyết số 10-NQ/TW, quan điểm xây dựng BLDS năm 2015, góp phần hạn chế phát sinh chi phí ban hành (sửa đổi, bổ sung) văn bản quy phạm pháp luật,[39] giảm chi phí tuân thủ pháp luật và chi phí giao dịch cho các bên liên quan. Trong khi đó, để xử lý các quan ngại của những người theo quan điểm tuyệt đối hóa cá nhân, pháp nhân, khi tham gia giao dịch, chỉ cần biện pháp kỹ thuật là sau tên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân ghi rõ tên của các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân đó.[40]
Trong mọi trường hợp, Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan chủ trì soạn thảo BLDS năm 2015 cần nhanh chóng có quan điểm chính thức và làm việc với các bộ, ngành, trong đó có Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để thống nhất cách hiểu Điều 101 BLDS năm 2015. Trường hợp chưa đạt được quan điểm chung, Bộ Tư pháp nên trình Chính phủ đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích luật theo thẩm quyền được hiến định để đảm bảo BLDS năm 2015 được áp dụng đúng tinh thần của nó, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật./.
Xem thêm về “Bộ luật Dân sự 2015”
- Bản chất của doanh nghiệp xã hội và cách phân loại pháp nhân theo Bộ luật Dân sự 2015 – ThS. Lê Nhật Bảo
- Một số khía cạnh pháp lý về quyền bề mặt trong quy định của Bộ luật Dân sự 2015 – PGS.TS. Trần Thị Huệ
- Quyền của người hưởng dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 – ThS. Nguyễn Thị Phương Hải
- Cần bổ sung “quyền được chết” vào trong Bộ luật Dân sự năm 2015 – ThS. Nguyễn Vinh Hưng
- Mối liên hệ của quyền về lối đi qua và các chế định khác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2013 – ThS. Nguyễn Thanh Thư & ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải
CHÚ THÍCH
[1]* PGS-TS, Phó trưởng Khoa Luật Thương mại, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
** TS, Vụ Pháp luật dân sự – kinh tế, Bộ Tư pháp.
Bài viết chỉ phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả.Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 26/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/08/2014 hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
[2] Khoản 6 Điều 1 và khoản 2 Điều 4 Thông tư số 32/2016/TT-NHNN; các khoản 3, 4 và 5 Điều 2 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
[3] Bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 74 Hiến pháp năm 2013.
[4] Xem: Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Dân sự ban hành kèm theo Quyết định số 243/2016/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 276/QĐ-BTP ngày 25/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
[5] Khoản 6 Điều 1 Thông tư số 32/2016/TT-NHNN.
[6] Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 32/2016/TT-NHNN.
[7] Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
[8] Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (được thay thế bởi Thông tư số 39/2016/TT-NHNN).
[9] Khoản 5 Điều 2 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
[10] Như: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, 2016, tr. 170-171; Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, 2016, tr. 46-48; Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2017, tr. 196-197.
[11] Những người theo quan điểm tuyệt đối hóa chủ thể là cá nhân, pháp nhân có thể lập luận rằng, vế thứ nhất “trường hợp… tham gia quan hệ dân sự” chỉ là giả định; vế thứ hai “thì các thành viên… là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” mới là quy định để khẳng định các thành viên (cá nhân) mới là chủ thể của quan hệ dân sự đó. Tuy nhiên, nếu lập luận như vậy thì ít nhất về logic, vế thứ hai phải là “thì các thành viên… là chủ thể tham gia quan hệ dân sự đó”.
[12] Báo cáo số 225/BC-CP ngày 19/5/2015 của Chính phủ trình Quốc hội về Kết quả lấy ý kiến Nhân dân và tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), tr. 11.
[13] Gồm: (i) bình đẳng; (ii) tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (iii) thiện chí, trung thực; (iv) tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; và (v) tự chịu trách nhiệm.
[14] Điều 2 Luật DNTN năm 1990; khoản 1 Điều 3, Điều 99 Luật Doanh nghiệp năm 1999; khoản 1 Điều 4, Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005; khoản 7 Điều 4, Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
[15] Điều 3 Luật DNTN năm 1990.
[16] Điều 7, 8 Luật Doanh nghiệp năm 1999; Điều 8, 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005; Điều 7, 8 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
[17] Điều 1, khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 1997; Điều 1, khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003; Điều 1, khoản 1 Điều 2 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008.
[18] Trong thực tiễn hợp đồng, DNTN luôn là một bên của hợp đồng, được đại diện bởi chủ DNTN với tư cách là chủ sở hữu và người đại diện theo pháp luật.
[19] Điều 19 Luật DNTN năm 1990; khoản 2 Điều 101 Luật Doanh nghiệp năm 1999; khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005; khoản 3 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
[20] Trên thực tế, tòa án các cấp cũng đã từng có sự nhầm lẫn về việc DNTN hay chủ DNTN là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng. Xem: Phan Huy Hồng (chủ nhiệm), Nguyễn Thị Thanh Huyền, Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của tòa án và trọng tài tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, 2011 (Chương 2. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa và tư cách đương sự trong tố tụng).
[21] Như: Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (Bùi Xuân Hải, chủ biên), Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nxb. Hồng Đức, 2016, tr. 77-99.
[22] Xem Mẫu Giấy chứng nhận đăng ký DNTN, Phụ lục IV-1 Thông tư số 20/2015/BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp.
[23] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, chú thích số 21, tr. 91.
[24] Điều 186, 187 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
[25] Điều 33 Luật Luật sư (Luật số 65/2006/QH11) ngày 29/6/2006, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư (Luật số 20/2012/QH13) ngày 20/11/2012.
[26] Tương tự đối với DNTN, trong giải quyết tranh chấp liên quan hộ kinh doanh, tòa án các cấp cũng từng có sự nhầm lẫn về tư cách chủ thể tố tụng của hộ kinh doanh hay của thành viên hộ kinh doanh. Xem: Phan Huy Hồng (chủ nhiệm), Nguyễn Thị Thanh Huyền, chú thích số 20.
[27] Xem Mẫu Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, Phụ lục VI-1 Thông tư số 20/2015/BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp.
[28] Xem các mẫu Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh theo các Thông tư số 08/2002/TT-BKH, 03/2004/TT-BKH, 03/2006/TT-BKH.
[29] Xem Mẫu Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh tại: Phụ lục VI-1 Thông tư số 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21/01/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp; Phụ lục VI-1 Thông tư số 20/2015/BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp.
[30] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, chú thích số 21, tr. 99-116.
[31] Đỗ Văn Đại, chú thích số 10, tr. 46.
[32] Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ, chú thích số 10, tr. 197.
[33] Điều 705-740 BLDS Đức.
[34] Thậm chí, theo BLDS Đức thì một liên danh nhà thầu như quy định trong Luật Đấu thầu năm 2013 của Việt Nam cũng là một “công ty theo luật dân sự”.
[35] BGH 2. Zivilsenat, Urteil vom 29. Januar 2001, Az: II ZR 331/00 (nguồn: BGHZ 146, 341-361 hoặc NJW 2001, 1056-1061)
[36] Xem thêm: Phan Huy Hồng, “Bàn về đổi mới chế định pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2013, tr. 28-37.
[37] Hà Hùng Cường, “Bộ luật Dân sự năm 2015: Một số nội dung mới, quan trọng, mang tính đột phá hướng tới phục vụ sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”, Tạp chí Cộng sản, số 885, tháng 7/2016, tr. 21-27.
[38] Tờ trình số 390 /TTr-CP ngày 12/10/2014 của Chính phủ về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi), tr. 7-8.
[39] Nếu hiểu BLDS năm 2015 theo hướng tuyệt đối hóa cá nhân, pháp nhân như cách hiểu của Ngân hàng Nhà nước thì sẽ phải thay đổi toàn bộ hệ thống pháp luật liên quan; và trong phạm vi bài viết, các tác giả chưa có điều kiện lượng hóa các chi phí không cần thiết như vậy cho xã hội và nền kinh tế.
[40] Ví dụ: (i) Bên A: Hộ gia đình ông Nguyễn Văn A (gồm: ông Nguyễn Văn A [chồng], bà Trần Thị B [vợ], Nguyễn Văn C [con], Nguyễn Thị B [con] – Hộ có 4 người) (có thể ghi tên người đại diện theo ủy quyền, nếu có); (ii) Bên B: Hộ kinh doanh/Tổ hợp tác ABC (gồm: ông Lê Văn A và ông Lý Văn B); (iii) Bên A: DNTN XYZ (ông Nguyễn Văn A là chủ DNTN); (iv) Bên B: Văn phòng luật sư XYZ (Luật sư Trần Văn B là Trưởng VPLS); (v) Bên nhà thầu: Liên danh ABC (Công ty A, Công ty B và Công ty C) …
- Tác giả: PGS.TS. Phan Huy Hồng – ThS. Nguyễn Thanh Tú
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06(109)/2017 – 2017, Trang 03-11
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời