• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Dân sự » Quyền sửa án của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam – Kinh nghiệm từ một số quốc gia

Quyền sửa án của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam – Kinh nghiệm từ một số quốc gia

02/05/2020 07/11/2020 TS. Đinh Bá Trung & ThS. Huỳnh Quang Thuận Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Quan điểm trái chiều
  • 2. Kinh nghiệm nước ngoài
  • CHÚ THÍCH

Quyền sửa án của hội đồng xét xử giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự (TTDS) Việt Nam – Kinh nghiệm từ một số quốc gia.

  • Bàn về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTHS 2003 – ThS. Đinh Văn Đoàn

TÓM TẮT

Quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật của Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm là một trong những bổ sung hết sức quan trọng của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thông qua bài viết này, tác giả sẽ trình bày các quan điểm trái chiều xoay quanh việc cho phép Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm được quyền sửa án, tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới và từ đó đưa ra quan điểm cá nhân đối với vấn đề này.

TỪ KHÓA: Quyền sửa án, Hội đồng xét xử, Giám đốc thẩm,

Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là một trong những chế định hết sức quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta nói riêng và tại hầu hết các quốc gia khác trên thế giới nói chung. Dù với tên gọi là thủ tục giám đốc thẩm (Việt Nam, Đức, Trung Quốc, Nga,…) hay thủ tục phá án (Pháp, Ý, Bungary, Thổ Nhĩ Kỳ,…) thì bản chất của thủ tục này là việc Tòa án cấp trên xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới để xem xét liệu có sai lầm, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án.

Khi bàn về thủ tục giám đốc thẩm (sau đây gọi tắt là GĐT), có rất nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được đặt ra như chủ thể có quyền kháng nghị GĐT, thời hạn yêu cầu kháng nghị GĐT căn cứ kháng nghị GĐT, trình tự, thủ tục GĐT… Tuy nhiên, trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập một chủ đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học cũng như những người làm thực tiễn, đó là Quyền sửa án của Hội đồng xét xử GĐT. Ngày 25/11/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt là BLTTDS năm 2015) được Quốc hội thông qua và đã có sự thay đổi đáng kể trong quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT. Cụ thể, theo Điều 343 BLTTDS 2015 thì: “Hội đồng xét xử GĐT có các quyền sau đây: “1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;… 5. Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực.” Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận thêm quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực của Hội đồng xét xử GĐT so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS năm 2004). Tuy nhiên, trong quá trình sửa đổi, quy định này vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của tất cả các học giả mà vẫn còn tồn tại những quan điểm đối lập. Trong phạm vi bài viết này, thông qua việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các quy định có liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT trong pháp luật Việt Nam, cùng với đó là kinh nghiệm nước ngoài về thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT, tác giả sẽ đi vào phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những quan điểm trái chiều mà các học giả đưa ra về vấn đề này. Cuối cùng, tác giả xin nêu và giải thích cho quan điểm cá nhân về quy định Hội đồng xét xử GĐT có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trong BLTTDS năm 2015.

1. Quan điểm trái chiều

Có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng dân sự, thủ tục GĐT nói chung và thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT khi xét kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nói riêng có rất nhiều sự thay đổi. Trong đó, việc có cho phép Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa bản án, quyết định hay không luôn là vấn đề được quan tâm và được ghi nhận rất khác nhau trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự qua các thời kỳ. Cụ thể, trước khi BLTTDS năm 2004 được ban hành, trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981 và các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án lao động năm 1996 đều quy định Hội đồng xét xử GĐT có thẩm quyền sửa chữa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005 đã bỏ đi thẩm quyền này của Hội đồng xét xử GĐT. Quy định này tiếp tục được giữ nguyên khi BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2011. Và trong công cuộc sửa đổi toàn diện để ban hành BLTTDS năm 2015, vấn đề này lại được đưa ra “mổ xẻ” với nhiều quan điểm trái chiều. Cụ thể:

– Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: quy định Hội đồng xét xử GĐT có quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp không phải thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án không quay vòng nhiều lần gây tốn kém về chi phí và thời gian của đương sự cũng như của Nhà nước. Quan điểm này được Tòa án nhân dân tối cao đồng tình và đưa vào Dự thảo sửa đổi BLTTDS tại Điều 340 và Điều 344.

– Loại ý kiến thứ hai cho rằng: GĐT là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; GĐT không phải là một cấp xét xử. Vì vậy, đề nghị không bổ sung quy định về việc Hội đồng xét xử GĐT có quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật[1].

Phải nhìn nhận rằng, cả hai quan điểm trên đều được hình thành trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Cụ thể:

Đối với quan điểm thứ nhất, các tác giả theo quan điểm này cho rằng việc quy định Hội đồng xét xử GĐT chỉ có quyền hủy bản án để đưa về xét xử lại khi nhận thấy có sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp dưới, tức là vụ án có thể phải xử lại từ trình tự sơ thẩm hoặc phúc thẩm, dẫn đến một trình tự tố tụng quay lại từ đầu. Về mặt lý thuyết, GĐT là trình tự xem xét vụ án dân sự cuối cùng, nghĩa là sẽ không còn phiên tòa nào tiếp sau nữa (trừ trường hợp xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao). Nhưng nếu Hội đồng xét xử GĐT thực hiện quyền hủy án để xét xử lại, sẽ có hàng loạt phiên tòa tiếp theo: (i) sơ thẩm lại mà sau khi sơ thẩm lại thì có thể sẽ có phúc thẩm, và sau khi phúc thẩm thì có thể sẽ phải sơ thẩm lại một lần nữa[2] và (ii) phúc thẩm lại vụ án. Không những vậy, sau khi đã xét xử lại ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm nếu vẫn có sai lầm thì sẽ lại tiếp tục bị GĐT và có thể lại quay trở về xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Cơ chế này khiến cho một vụ án có thể rơi vào tình trạng xử đi, xử lại trong một khoảng thời gian dài, rơi vào tình trạng sa lầy không có lối thoát.[3]

Điều này có thể nói là một “lỗ hổng” của pháp luật, bởi lẽ pháp luật tố tụng được đặt ra để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, nhưng với việc một vụ án được giải quyết qua rất nhiều phiên tòa như trên thì rõ ràng dù chưa xét tới việc Tòa án giải quyết đúng hay sai nhưng trước mắt quyền và lợi ích của các đương sự đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chính vì thế, việc cho phép Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa bản án trong những trường hợp nhất định (thông thường là trong trường hợp việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ) như đã từng quy định trong các Pháp lệnh trình tự giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động là hợp lý.[4]

Đồng thời, có tác giả cho rằng việc Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”[5] cần được hiểu là một vụ án nếu sau khi xét xử sơ thẩm, đương sự, Viện kiểm sát có kháng cáo, kháng nghị hợp lệ thì phải được xét xử phúc thẩm; quy định này không có nghĩa là chỉ có xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm mới là “cấp xét xử”. Bên cạnh đó, với mô hình Tòa án 4 cấp thì Tòa án nhân dân tối cao chỉ xét xử GĐT, tái thẩm mà không xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Như vậy, phải nhìn nhận GĐT, tái thẩm là một cấp xét xử và cần sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền GĐT, tái thẩm theo hướng Hội đồng xét xử GĐT có thể sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu có đủ căn cứ. Việc quy định Hội đồng xét xử GĐT có quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cũng là điều kiện để Tòa án Nhân dân Tối cao ban hành và phát triển án lệ theo tinh thần cải cách tư pháp và đã được thể chế hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.[6]

Đối với quan điểm thứ hai, các tác giả bảo vệ cho quan điểm này cho rằng việc cho phép Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa án là hoàn toàn không hợp lý. Bởi lẽ, khi xem xét vấn đề thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT, cần phải xuất phát từ bản chất của GĐT là việc “xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. [7] Hay nói cách khác, GĐT là xem xét tính hợp pháp trong quy trình hoạt động của nội bộ hệ thống tư pháp với mục đích để Tòa án cấp cao hơn kiểm tra tính hợp pháp của Tòa án cấp dưới, chứ không phải phán quyết (xử) về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Chính vì GĐT không phải là hoạt động xét xử nên thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT chỉ là không chấp nhận kháng nghị, y án hoặc hủy án mà không có quyền sửa án, tức ra phán quyết về quyền lợi trực tiếp của đương sự.[8]

Mặt khác, tại nước ta nói riêng và những nước theo nguyên tắc hai cấp xét xử nói chung, thủ tục GĐT không được coi là một cấp xét xử. Một vụ án chỉ được giải quyết qua hai cấp xét xử đó là sơ thẩm và phúc thẩm mà thôi, còn GĐT là một thủ tục đặc biệt để xét lại bản án có hiệu lực – một trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc hai cấp xét xử. Do đó, về nguyên tắc do không phải là cấp xét xử nên cấp GĐT không có quyền “xử án” mà chỉ có quyền “xét án”. Tuy nhiên, một điểm khác biệt rất lớn trong pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta so với các nước trên thế giới, đó là pháp luật tố tụng dân sự nước ta không có sự phân biệt giữa vấn đề sự kiện và vấn đề pháp lý, do đó việc phúc thẩm cũng như GĐT hay tái thẩm đều có thể xem xét cả vấn đề pháp lý và sự kiện. Chẳng hạn, căn cứ kháng nghị GĐT theo quy định “kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án”[9] là vấn đề sự kiện của vụ án chứ không phải là vấn đề pháp lý. Chính vì thế, việc hủy bỏ quyền sửa bản án của Hội đồng xét xử GĐT như quy định trong BLTTDS năm 2004 cũng như Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 là một điểm tiến bộ, nhằm hạn chế một cách đáng kể sự xem xét về mặt nội dung sự kiện của vụ án, tránh tình trạng vô tình biến GĐT thành một cấp xét xử thứ ba, không phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng dân sự.[10]

Cuối cùng, BLTTDS năm 2015 được thông qua đã theo hướng Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử GĐT chỉ được thực hiện quyền sửa án khi có đủ các điều kiện tại Điều 347 BLTTDS 2015 như sau: (i) Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án và (ii) Việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Quyền sửa án của hội đồng xét xử giám đốc thẩm trong TTDS Việt Nam - Kinh nghiệm từ một số quốc gia.

2. Kinh nghiệm nước ngoài

Với sự khác biệt về mặt bản chất giữa hai mô hình tố tụng dân sự là mô hình thẩm xét (civil law) và mô hình tranh tụng (common law) dẫn đến quan niệm về thủ tục GĐT nói chung và thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT nói riêng trong hai mô hình này có những điểm khác biệt đáng kể.

Ở các nước theo mô hình tranh tụng, nguyên tắc hai cấp xét xử không được công nhận mà nguyên tắc đặc trưng là nguyên tắc chung thẩm. Tức là mọi bản án của Tòa án bất kể của Tòa án cấp thấp hay Tòa án cấp cao, Tòa án thường hay Tòa án chuyên trách sẽ mặc nhiên có hiệu lực pháp luật và được thi hành trừ khi bị Tòa án quyết định dừng việc thi hành. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự của các nước theo mô hình tranh tụng không phân chia các thủ tục phúc thẩm và thủ tục GĐT, tái thẩm (phá án) mà chỉ có một thủ tục duy nhất là phúc thẩm, hay nói chính xác hơn là xét lại án. Tòa án cấp phúc thẩm khi xét lại án có quyền hạn giống như Tòa án cấp sơ thẩm, được xét xử lại toàn bộ vụ án.[11] Tuy nhiên, khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực, Tòa án ở các nước theo mô hình tranh tụng không xem xét lại những vấn đề về mặt sự kiện mà chỉ xem xét những vấn đề về mặt pháp lý, tức là việc áp dụng pháp luật của Tòa án. Chính vì thế, Tòa án cấp phúc thẩm (xét lại án) thông thường có thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy việc áp dụng hay giải thích pháp luật của Tòa án cấp dưới là sai lầm.[12] Điển hình cho các nước theo mô hình này như Úc, Canada, Anh… đều quy định Tòa án khi xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật có thẩm quyền sửa chữa bản án theo hướng này.

Ngược lại, tại các nước theo mô hình thẩm xét, dựa trên nguyên tắc hai cấp xét xử, một vụ án sau khi trải qua tối đa hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm thì bản án, quyết định sẽ có hiệu lực pháp luật và được đưa vào thi hành. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự các nước này vẫn quy định thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực trong trường hợp phát hiện sai lầm trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đó là thủ tục GĐT (phá án). Mặc dù vậy, ngay trong nội bộ những nước theo mô hình thẩm xét thì quan điểm về GĐT nói chung và thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT nói riêng cũng có nhiều sự khác biệt đáng kể. Chẳng hạn:

– Pháp luật tố tụng Pháp được coi là trung thành với thủ tục “phá án”, tức là duy trì quy định thẩm quyền của Tòa phá án (GĐT) chỉ bao gồm việc bác đơn xin phá án nếu không có căn cứ hoặc hủy bản án để trả lại cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu.[13]

– Pháp luật tố tụng dân sự Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều sự thay đổi trong tổ chức Tòa án. Cụ thể, theo BLTTDS Thổ Nhĩ Kỳ ban hành năm 1927, được sửa đổi qua nhiều lần quy định một chế độ xét xử bao gồm hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm.[14] Theo Bộ luật này thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ có thẩm quyền giải quyết kháng cáo với vai trò như Tòa phá án. Tòa phúc thẩm sẽ được quyền sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm.[15]  Sự ra đời của BLTTDS mới của Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2011 đã xác lập nên ba cấp Tòa án để giải quyết một vụ án dân sự. Theo quy định của bộ luật này, Tòa phá án tối cao sẽ là cơ quan cuối cùng xem xét việc giải quyết một vụ án dân sự tương tự như Tòa phá án Pháp và cũng không có quyền sửa chữa bản án mà chỉ có thể hủy toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực mà thôi.[16] Tuy nhiên, dù đã được ban hành từ năm 2011 nhưng hiện tại BLTTDS mới của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa có hiệu lực, việc xét xử vụ án dân sự vẫn tuân theo quy định của BLTTDS cũ.

– Pháp luật tố tụng dân sự của Ý cho phép Tòa phá án có thể sửa chữa bản án, tuy nhiên chỉ trong trường hợp Tòa án cấp dưới mắc sai lầm trong lập luận của mình nhưng không ảnh hưởng tới tính chính xác của phán quyết cuối cùng. Trong trường hợp này nếu có đơn yêu cầu thì Tòa phá án có thể giữ nguyên bản án của Tòa án cấp dưới mà không sửa chữa.[17] Như vậy, tại Ý, Tòa phá án cũng có thể sửa chữa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng chỉ trong những trường hợp rất hạn chế và không làm ảnh hưởng tới nội dung chính của phán quyết.

– Tại Đức, Tòa án Liên bang Đức khi phá án có quyền bác đơn xin phá án và giữ nguyên bản án có hiệu lực,[18] hủy bản án có sai lầm, vi phạm để trả lại cho Tòa án cấp dưới xét xử lại[19] hoặc có thể hủy bản án cũ và thay thế bằng bản án mới [20] khi cho rằng việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ để có thể ra phán quyết giải quyết vụ án.[21] Như vậy, mặc dù Đức là quốc gia theo truyền thống luật dân sự nhưng Tòa án tối cao Liên bang Đức khi xét GĐT vẫn có quyền sửa đổi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp.

– Pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga cũng cho phép Tòa án cấp GĐT được quyền hủy bỏ hoặc thay đổi bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và ra phán quyết mới mà không chuyển vụ án để xét xử lại, nếu đã có sai sót trong việc áp dụng và giải thích pháp luật.[22]

Có thể thấy rằng việc có cho phép Hội đồng xét xử GĐT (Tòa phá án) có quyền sửa bản án hay không không phải chỉ gây tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học ở nước ta mà còn là vấn đề tranh luận của các nhà làm luật tại các quốc gia trên thế giới.

Tại Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử nên pháp luật tố tụng của nước ta chịu ảnh hưởng, chi phối bởi nhiều luồng quan điểm trên thế giới. Như đã trình bày ở các phần trên, vào đầu thế kỷ 20, người Pháp đã “cấy ghép” các bộ luật theo kiểu phương Tây vào Việt Nam. Do đó, ban đầu thủ tục GĐT của Việt Nam chính là thủ tục “phá án” của Pháp. Sau đó, do ảnh hưởng từ hệ thống pháp luật của Liên Xô, Trung Quốc, thủ tục GĐT không đơn thuần chỉ là “phá án” mà còn là “xử lại” với việc thay thế bản án bị kháng nghị bằng một bản án mới. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước, luật lệ cần được pháp điển hóa và cần phải sửa đổi, nhưng lúc này nhà nước Liên Xô đã giải thể (tháng 12/1991), do đó việc học tập kinh nghiệm xây dựng pháp luật từ Liên Xô không còn nữa. Năm 1993, Nhà pháp luật Việt – Pháp được thành lập với hai nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ Việt Nam trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật và đào tạo chuyên gia ngành tư pháp. Trong thời gian xây dựng BLTTDS năm 2004, Nhà pháp luật Việt – Pháp đã tổ chức nhiều hội thảo về các chủ đề xoay quanh việc soạn thảo bộ luật này và quan điểm về tính chất của GĐT không phải là xét xử mà chỉ là “phá án” lại quay trở lại Việt Nam.[23] Chính vì thế, việc xây dựng quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT cho BLTTDS Việt Nam không phải là một điều đơn giản.

Không thể phủ nhận rằng cả hai luồng quan điểm khi sửa đổi toàn diện BLTTDS về thẩm quyền của Hội đồng xét xử GĐT khi xét kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều có cơ sở lý luận và thực tiễn của riêng mình, và phương án nào cũng có những sự hợp lý nhất định. Để lựa chọn phương án tối ưu nhất cho pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, cần phải có sự nghiên cứu kỹ càng, đánh giá các tác động một cách khách quan, chính xác nhất, làm sao để đạt được mục đích mà BLTTDS hướng tới, đó là bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.

Đối với vấn đề này, trong bối cảnh hiện nay, cá nhân tác giả cho rằng việc quy định Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới như BLTTDS 2015 là hợp lý và cần thiết. Bởi lẽ, thực tiễn đã cho thấy rằng, việc không cho phép Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như trong BLTTDS 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2011 đã làm cho thời gian giải quyết một vụ án dân sự có thể bị kéo dài rất lâu, thậm chí có những vụ án kéo dài hơn 20 năm, trải qua hơn mười lần xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vẫn chưa có hồi kết, gây thiệt hại rất lớn đến quyền và lợi ích của các đương sự và ngân sách Nhà nước.[24] Điều này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu nhất là bởi các Tòa án cấp dưới vẫn chưa có đủ nhân lực và trình độ để có thể xét xử một cách chính xác và khách quan tất cả các vụ án dân sự. Trong khi đó, Hội đồng xét xử GĐT về cơ bản sẽ tập trung những Thẩm phán có kinh nghiệm và năng lực xét xử hàng đầu trong ngành Tòa án, có thể đảm bảo vụ án được giải quyết một cách chính xác và khách quan nhất. Chính vì thế, việc cho phép Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa chữa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới có thể phần nào khắc phục được những hạn chế và bất cập hiện tại, giúp cho vụ án dân sự có thể đi tới hồi kết và được giải quyết dứt điểm.

Tuy nhiên, về lâu dài, có thể thấy rằng việc cho phép Hội đồng xét xử GĐT được quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là chưa thật sự hợp lý và phù hợp với cơ sở lý luận của thủ tục GĐT. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chính, quan trọng nhất như quan điểm của một số tác giả đã đề cập, GĐT không thể được coi là một cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự nước ta. Bởi lẽ, theo quy định của Hiến pháp và BLTTDS thì bản án, quyết định phúc thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật, điều này đã được ghi nhận trong tất cả các quy định về tố tụng dân sự từ trước đến nay. Điều đó có nghĩa là sau khi xét xử phúc thẩm thì tranh chấp về cơ bản đã được giải quyết xong, quyền và nghĩa vụ của đương sự đã được định đoạt. Đồng thời, theo quy định của BLTTDS thì đương sự không có quyền “khởi động” thủ tục GĐT, hay nói cách khác các đương sự không có quyền quyết định đối với việc có diễn ra thủ tục GĐT hay không. Chính vì thế, việc nhìn nhận GĐT dưới góc độ là một cấp xét xử là không hợp lý và thủ tục GĐT chỉ là một trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc hai cấp xét xử mà thôi. Do đó, về nguyên tắc thì cấp GĐT không được quyền xử án, không được quyết định về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án. Có như vậy mới đảm bảo được tinh thần của việc đặt ra quy định về thủ tục GĐT – thủ tục đặc biệt nhằm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Mặt khác, việc cho phép cấp GĐT sửa án còn có thể gây ra tiêu cực ở chỗ, khi có quyết định GĐT thì các đương sự không còn kênh nào khác để có thể khiếu nại nếu Hội đồng xét xử GĐT mắc phải sai lầm khi ra phán quyết. Cho dù hiện nay BLTTDS năm 2015 vẫn giữ lại cơ chế xét lại quyết định GĐT của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, nhưng trên thực tế từ khi chế định này có hiệu lực áp dụng cho đến nay vẫn chưa có một quyết định GĐT nào của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao bị xem xét lại. Do đó, lúc này khi Tòa án cấp GĐT làm sai mà rõ ràng xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của đương sự thì chúng ta cũng không có phương án nào để khắc phục. Chính vì thế, khi chưa có cơ sở để khẳng định rằng cấp GĐT luôn giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan nhất thì việc cho phép Hội đồng xét xử GĐT có quyền sửa án sẽ là rất nguy hiểm, có thể đi ngược lại với mục đích đặt ra của BLTTDS là bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Đồng thời, với nguyên tắc hai cấp xét xử, một vụ án dân sự ở nước ta đã được xem xét bởi hai cấp Tòa án và có thể trải qua nhiều phiên tòa khác nhau (trong trường hợp Tòa án phúc thẩm hủy án để sơ thẩm xét xử lại). Do đó, trong tương lai, khi chúng ta đã dần nâng cao được chất lượng xét xử của Tòa án cấp dưới, tức là đã khắc phục “phần gốc” của nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng một vụ án phải xét xử lại nhiều lần, thì lúc này có thể thấy rằng không có lý do gì để cấp GĐT cần phải có thêm thẩm quyền sửa án. Khi đó, cấp GĐT sẽ thực hiện được đúng chức năng mà nó được đặt ra để đảm nhận, đó là xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.

CHÚ THÍCH

[1] Tờ trình về dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) ngày 26/2/2015 của Tòa án nhân dân tối cao.

[2] Điều 275 và Điều 277 BLTTDS 2004.

[3] Lê Thu Hà, Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 119.

[4] Dương Thị Thanh Mai, Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 125.

[5] Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

[6] Tống Anh Hào, “Những nội dung chủ yếu về dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi)”, Tọa đàm về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam, 2015, tr. 8-9.

[7] Điều 282 BLTTDS.

[8] Nguyễn Thị Phượng, “Giám đốc thẩm – “xét” chứ không “xử””, Nghiên cứu lập pháp, số 13(150), 2009, tr. 56.

[9] Khoản 1 Điều 283 BLTTDS.

[10] Tống Công Cường, Luật Tố tụng dân sự Việt Nam – Nghiên cứu so sánh, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr. 388 – 389.

[11] Tống Công Cường, tlđd, tr. 354

[12] Card F.Gooman, Justice and Civil Procedure in Japan, Nxb. Oceana Publications Inc, 2004, tr. 428.

[13] Điều 620 BLTTDS Pháp.

[14].XRami Arda Yörükoğlu and Zeynep Müge Erdoğmuş, “Turkey: An Overview of Appeal and Cassation Procedures in Turkish Civil Procedure”, http://www.mondaq.com/turkey/x/362638/Civil+Law/An+Overview+of+Appeal+and+Cassation+Procedures+in+Turkish+Civil+Procedure, truy cập ngày 20/8/2017.

[15] Simon Bushell , Dispute Resolution in 47 jurisdiction worldwide, Nxb. Getting the Deal Through, 2012, tr. 244.

[16] Rami Arda Yörükoğlu and Zeynep Müge Erdoğmuş, tlđd.

[17] Christian Campbell, International Civil Procedure, Volume II, Nxb. Yorkhill Law Publishing, 2007, tr. 104.

[18] Điều 561 BLTTDS Đức.

[19] Điều 562, Khoản 1 Điều 263 BLTTDS Đức.

[20] Paul Ranjard, Wan Hui Da IP Agency, Comparative study between the Civil Procedures of France, Germany and China, 2011, tr. 27, http://www.ipkey.org/en/resources/ip-information-centre/download/1950/1704/23, truy cập ngày 20/8/2017.

[21] Khoản 3 Điều 263 BLTTDS Đức.

[22] Khoản 5 Điều 390 BLTTDS Liên bang Nga.

[23] Ngô Cường, “Thủ tục giám đốc thẩm của Việt Nam: Quá trình phát triển và kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát, (17), 2013, tr. 42 – 43.

[24] Hoàng Yến, “20 năm mới tạm khép một vụ án dân sự” , Báo điện tử Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, http://phapluattp.vn/phap-luat/20-nam-moi-tam-khep-mot-vu-an-dan-su-547927.html, truy cập ngày 20/8/2017.

Tác giả: TS. Đinh Bá Trung & ThS. Huỳnh Quang Thuận

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Tạp chí Khoa học pháp lý VIệt Nam
Bàn về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTHS 2003
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Bình luận bản án: Hành vi xâm phạm quyền tác giả
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Khái niệm công bằng trong nguyên tắc công bằng hợp lý
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Mua bán quyền phát thải khí nhà kính – khía cạnh pháp lý và thực tiễn
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Áp dụng nguyên tắc phòng ngừa kiểm soát nhập khẩu sinh vật ngoại lai
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Chế định mặc cả nhận tội theo Luật Hoa Kỳ: Kinh nghiệm cho Việt Nam

Chuyên mục: Dân sự, Tố tụng dân sự Từ khóa: Giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử, Quyền sửa án, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2018

Previous Post: « Chứng minh tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm theo Hoa Kỳ
Next Post: Chế định mặc cả nhận tội theo Luật Hoa Kỳ: Kinh nghiệm cho Việt Nam »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • Cạnh tranh
  • Dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
  • Đất đai
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự (188)
    • Luật Hình sự – Phần chung (46)
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm (2)
    • Luật Hình sự quốc tế (7)
    • Luật Tố tụng hình sự (59)
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Kiến thức chung
    • Lịch sử văn minh thế giới
  • Lao động (29)
  • Luật Thuế (11)
  • Lý luận chung Nhà nước & Pháp luật (123)
  • Môi trường (22)
  • Ngân hàng (9)
  • Pháp luật đại cương (15)
  • Quốc tế (137)
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế (1)
    • Công pháp quốc tế (22)
    • Luật Đầu tư quốc tế (16)
    • Luật Hình sự quốc tế (7)
    • Thương mại quốc tế (54)
    • Tư pháp quốc tế (6)
  • Thương mại (70)
  • Tội phạm học (4)
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh (7)

Thống kê: iluatsu.com

  • 10 Chuyên mục
  • 1051 Bài viết
  • 2989 Lượt tư vấn

Footer

Bình luận mới nhất:

  • Toan trong [EBOOK] Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam pdf
  • Nguyễn Hoàng Phúc trong [EBOOK] Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam pdf
  • Trần Hải Yến trong [EBOOK] Giáo trình Luật Lao động pdf – ĐH Luật Hà Nội
  • Nguyễn Hà trong [CÓ ĐÁP ÁN] Trắc nghiệm môn Luật Hiến pháp Việt Nam 2013
  • Nguyễn Hà trong [CÓ ĐÁP ÁN] 185 Nhận định đúng sai Luật Hiến pháp Việt Nam 2013

Bài viết mới:

  • [PDF] Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần chung 15/02/2021
  • Các bước để trở thành Luật sư ở Việt Nam 29/01/2021
  • [CÓ ĐÁP ÁN] Câu hỏi ôn tập môn Triết học 28/01/2021
  • Tăng cường thực thi pháp luật môi trường tại Việt Nam thông qua nội luật hóa Công ước Basel 1989 27/01/2021
  • Những nội dung mới của BLTTHS 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong TTHS 26/01/2021

Giới thiệu:

Luật sư Online (https://iluatsu.com) là một web/blog cá nhân, chủ yếu chia sẻ tài liệu, kiến thức pháp luật, tình huống pháp lý và đặc biệt là tư vấn luật hoàn toàn miễn phí…  Hi vọng bạn sẽ tìm thấy nhiều điều bổ ích trên website và đừng quên ghé thăm thường xuyên bạn nhé! Chúng tôi luôn: Tận tâm – Tận tình – Tận tụy!

Copyright © 2021 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng