Mục lục
Bàn về quy định người tiêu dùng là tổ chức theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam
TÓM TẮT
Bài viết phân tích và bình luận quy định “người tiêu dùng là tổ chức” theo luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam hiện nay trên cơ sở so sánh với Bộ luật Dân sự năm 2015, pháp luật nước ngoài và thực tiễn áp dụng, qua đó, đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định trên.
Xem thêm về “Người tiêu dùng“:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do thực phẩm không an toàn gây ra cho người tiêu dùng – ThS. Lê Thị Hồng Vân
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cá nhân khi ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng – ThS. Trần Thị Diệu Hà
- Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm: Nhìn từ khía cạnh quản lý nhà nước và quyền lợi người tiêu dùng – ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
- Bàn về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử – ThS. Nguyễn Thị Thu Hằng
Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có đối tượng điều chỉnh chủ yếu là quan hệ giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Đây là quan hệ mang tính chất tư giữa một bên là người tiêu dùng (với mục đích tiêu dùng, sinh hoạt) và một bên là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (với mục đích sinh lợi). Theo đó, bên kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thể là cá nhân hoặc tổ chức còn người tiêu dùng chỉ là các cá nhân hay bao gồm cả tổ chức và nếu là tổ chức thì với điều kiện nào mới được xem là người tiêu dùng là vấn đề còn chưa được quy định, hướng dẫn rõ ràng dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau. Do đó, bài viết chủ yếu tập trung nghiên cứu quy định về người tiêu dùng là tổ chức theo luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam hiện nay trên cơ sở so sánh với pháp luật nước ngoài và thực tiễn, qua đó, đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật.
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về người tiêu dùng là tổ chức
1.1. Về việc thừa nhận người tiêu dùng là tổ chức
Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (LBVQLNTD) năm 2010 quy định: Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Với định nghĩa này, chúng ta thấy rằng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình thì chính người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ hay thành viên gia đình sử dụng hàng hóa, dịch vụ (các cá nhân) được xem là người tiêu dùng. Tuy nhiên, trường hợp người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức thì người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ là người tiêu dùng hay tổ chức là người tiêu dùng (trong trường hợp người mua chỉ là người đại diện) là vấn đề còn chưa được giải thích rõ ràng dẫn đến những cách hiểu khác nhau.
Có quan điểm cho rằng người tiêu dùng có thể gồm các tổ chức có mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Cụ thể là: “Dù là một, nhiều cá nhân riêng lẻ hay một tập hợp các cá nhân dưới hình thức hộ gia đình hay các tổ chức thì người tiêu dùng theo thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam đều có các đặc điểm chung như sau: là một hoặc nhiều cá nhân hoặc những tổ chức mua hoặc người sử dụng hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp cho mục đích sinh hoạt hoặc tiêu dùng…. ”. [1] Đồng quan điểm này, có tác giả đã cho rằng: “Khái niệm người tiêu dùng trong Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã chính thức được đưa vào quy định tại khoản 1 Điều 3 LBVNTD năm 2010. Theo định nghĩa này, người tiêu dùng có thể là cá nhân, tổ chức mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Nhưng bên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cũng không phải là người tiêu dùng nếu họ mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không phải để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình ….”.[2] Tác giả khác cũng cho rằng: “Khác với cách quan niệm của nhiều quốc gia trên thế giới như Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp… và cả Liên minh châu Âu chỉ là cá nhân, người tiêu dùng của Việt Nam bao gồm cả cá nhân và tổ chức mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và không nhằm mục đích bán lại”. [3]
Quan điểm khác thì cho rằng người tiêu dùng chỉ là các cá nhân: “Xác định người tiêu dùng là các cá nhân xuất phát từ chính mục đích cho sự ra đời của lĩnh vực pháp luật này là hỗ trợ những người tiêu dùng yếu thế trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ…. Chính vì vậy, nhìn chung, đa số pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng các nước và vùng lãnh thổ không coi tổ chức là người tiêu dùng. Các giao dịch mà họ tham gia sẽ được bảo vệ theo pháp luật hợp đồng, mặc dù đối tượng của giao dịch là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng….”.[4] Quan điểm tương đồng cho rằng: “Việc coi tổ chức là người tiêu dùng sẽ dẫn đến những trường hợp mà mối quan hệ giữa các chủ thể hoàn toàn bình đẳng nhưng vẫn có sự can thiệp và bảo vệ của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, dẫn đến thiệt hại cho phía nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, mặc dù họ không lạm dụng sự yếu thế của người mua. Luật Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam không nên áp dụng các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng đối với tổ chức hay nói cách khác, không nên coi tổ chức là người tiêu dùng.”[5]
Như vậy, dù có những quan điểm khác nhau về việc quy định người tiêu dùng là tổ chức nhưng định nghĩa tại khoản 1 Điều 3 LBVQLNTD năm 2010 cho thấy các nhà làm luật đã thừa nhận tổ chức cũng có thể được coi là người tiêu dùng nếu mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức đó. Tuy nhiên, thế nào là “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt” thì vẫn chưa được giải thích.
1.2. Về quy định “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt” của tổ chức
Khoản 1 Điều 3 LBVQLNTD năm 2010 nêu ra định nghĩa về người tiêu dùng và đề cập “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. [6] Đồng thời, khoản 2 Điều 3 luật trên cũng nêu ra định nghĩa về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là “tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: a) Thương nhân theo quy định của Luật Thương mại; b) Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh.”.
Trong mối quan hệ giữa tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh với người tiêu dùng thì người tiêu dùng là bên yếu thế và được pháp luật ưu tiên bảo vệ.[7] Tuy nhiên, để được coi là người tiêu dùng thì người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phải vì mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. LBVQLNTD năm 2010 không giải thích về “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt” nhưng từ quy định trên có thể thấy không thể coi là người tiêu dùng nếu việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi như mua để bán lại. Về vấn đề này, có quan điểm tương đồng cho rằng: “Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt ở đây có nghĩa là người tiêu dùng mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho các nhu cầu của cá nhân mình, gia đình mình… không phải là phục vụ cho việc bán lại, hoạt động sản xuất kinh doanh khác hoặc các hoạt động nghề nghiệp.”[8]
Tuy nhiên, mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình thì có thể xác định được nhưng mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức là rất khó để xác định. “Việc xác định một tổ chức mua một loại hàng hóa hay sử dụng một loại dịch vụ vì mục đích thương mại hay mục đích tiêu dùng không phải dễ dàng. Chẳng hạn, tổ chức vay tiền để xây nhà ở phúc lợi cho nhân viên thì được coi là tiêu dùng hay thương mại. Hay một tổ chức mua thực phẩm về phục vụ cho công nhân ăn trưa, chắc rằng vẫn sẽ có người tranh luận chi phí ăn trưa nằm trong quá trình tái sản xuất sức lao động và phục vụ cho mục đích kinh doanh chung, không thể coi là vì mục đích tiêu dùng và ngược lại, sẽ có người khác phản biện lại rằng rõ ràng tổ chức đó mua thực phẩm về không có mục đích bán lại mà để tiêu dùng tại chỗ, phải được coi là để tiêu dùng.”[9] Hơn nữa, trên thực tế, tồn tại nhiều loại hình tổ chức khác nhau được thành lập, hoạt động với những mục đích đa dạng, phong phú (có thể có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân) làm cho việc xác định trường hợp mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích “tiêu dùng, sinh hoạt” càng khó khăn hơn.
Đối với tổ chức là pháp nhân, nếu Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định theo hướng liệt kê các loại pháp nhân và không đưa ra tiêu chí để phân loại thì BLDS năm 2015 đã phân loại pháp nhân dựa vào mục tiêu hoạt động. Theo đó, pháp nhân được chia thành 2 loại là pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Cụ thể, “pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được chia cho các thành viên. Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác”. [10] Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 cũng quy định một số vấn đề như chủ thể trong quan hệ dân sự, tài sản chung và trách nhiệm dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự từ Điều 101 đến Điều 104.
Từ những quy định trên của BLDS năm 2015, đối chiếu với định nghĩa về người tiêu dùng của LBVQLNTD năm 2010, chúng ta thấy rằng đối với người tiêu dùng là tổ chức thì:
Thứ nhất, nếu tổ chức đó là pháp nhân thì trước tiên phải là pháp nhân phi thương mại. Tuy nhiên, pháp nhân phi thương mại vẫn có thể có hoạt động thu lợi nhuận dù không phải là mục đích chính; khi đó, pháp nhân phi thương mại có được coi là người tiêu dùng hay không còn phải xem xét việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ là cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt chứ không vì mục đích thu lợi nhuận. Riêng đối với pháp nhân thương mại – pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và thông thường, hoạt động của pháp nhân này đều phục vụ cho mục tiêu chính của mình. Do đó, rất khó để xác định pháp nhân thương mại là người tiêu dùng.[11] Đối với loại pháp nhân này, BLDS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận”, còn LBVQLNTD năm 2010 thì gắn tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với “mục đích sinh lợi”. Dù thuật ngữ có sự khác nhau nhưng xét về bản chất có thể thấy nếu tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là pháp nhân thì đó chính là pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, có phải mọi hoạt động của pháp nhân thương mại đều là vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận hay không và có việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt không là vấn đề khó xác định. Do đó, cũng khó có thể kết luận pháp nhân thương mại luôn luôn không là người tiêu dùng. Có tác giả đã cho rằng: “… khoản 1 Điều 3 LBVQLNTD đưa thêm “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức” là chưa được rõ ràng. Bởi lẽ, hoạt động tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức không thể xác định được… Trường hợp nhà làm luật ngụ ý rằng tổ chức cũng là người tiêu dùng thì một mặt nó không phù hợp thông lệ chung, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được đặt thêm bên cạnh luật dân sự, thương mại chỉ để hỗ trợ các cá nhân yếu thế trong các giao dịch… Đồng thời, nó cũng có thể bị lạm dụng bởi chính các doanh nghiệp cũng là những tổ chức đặc thù. Thay vì họ thực hiện các quyền của mình theo luật dân sự, thương mại, họ giành lợi thế bất chính với phía bên kia bằng cách khởi kiện thông qua các quyền của người tiêu dùng.”[12]
Thứ hai, nếu tổ chức đó là hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân thì phải hoạt động thông qua các thành viên hoặc người đại diện (thường là các cá nhân) và chỉ được coi là người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt và không có mục đích sinh lợi.
Như vậy, việc LBVQLNTD năm 2010 quy định về “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức” là một quy định còn mang tính chung chung dẫn đến việc khó xác định được tổ chức nào được coi là người tiêu dùng, nếu là pháp nhân thì đó là pháp nhân phi thương mại hay bao gồm cả pháp nhân thương mại và hoạt động nào của tổ chức được xem là phục vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt.
2. Quy định về người tiêu dùng là tổ chức theo pháp luật nước ngoài
Điều 2 Chỉ thị số 93/13/EEC năm 1993 về các điều khoản giao dịch không công bằng của Hội đồng châu Âu quy định: “Người tiêu dùng là con người tự nhiên, xác lập các hợp đồng theo chỉ thị này, cho các mục đích không phải thương mại, kinh doanh hay nghề nghiệp”.[13]
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các nước thành viên ASEAN như Thái Lan,[14] Malaysia,[15] Philipines,[16]… cũng đều có quan điểm người tiêu dùng là cá nhân (tự nhiên nhân – natural person).
Với Bộ luật Tiêu dùng của Pháp thì người tiêu dùng được hiểu là tất cả các cá nhân mà mục đích hoạt động của họ không nằm trong khuôn khổ của hoạt động thương mại, công nghiệp, thủ công, hành nghề tự do hoặc nông nghiệp.[17] Bên cạnh đó, Bộ luật Tiêu dùng Pháp sửa đổi năm 2014 đã đưa ra định nghĩa về chủ thể không kinh doanh là “bất kỳ pháp nhân nào không có những hoạt động vì mục đích kinh doanh”. [18] Quy định này cho thấy người tiêu dùng cũng bị giới hạn là các cá nhân. Tuy nhiên, pháp nhân tham gia hoạt động tiêu dùng (không có mục đích kinh doanh) có thể được giải thích theo nghĩa là chủ thể không kinh doanh và được Bộ luật Tiêu dùng bảo vệ.
Ngoài ra, có nghiên cứu cho rằng: “trong luật pháp một số quốc gia như Áo, Đức, Ba Lan, Trung Quốc… , khái niệm người tiêu dùng còn bao hàm cả các tổ chức, hiệp hội khi họ sử dụng các sản phẩm dịch vụ không vì mục đích kinh doanh hoặc các chức năng nghề nghiệp.”[19]
Như vậy, nhìn chung, đa số các quốc gia đều quy định người tiêu dùng là cá nhân. Tuy nhiên, một số quốc gia vẫn thừa nhận tổ chức là người tiêu dùng khi tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích kinh doanh.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam thời gian qua cho thấy người tiêu dùng yêu cầu bảo vệ quyền lợi chủ yếu là các cá nhân. Chẳng hạn như:[20] Bản án số 06/2015/DSST ngày 23/09/2015 của Tòa án nhân dân (TAND) quận Bắc Từ Liêm – TP. Hà Nội và bản án số 42/2016/DSPT ngày 14/03/2016 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp giữa người tiêu dùng là bà Minh (cá nhân) với bị đơn là công ty Coca – Cola Việt Nam liên quan đến sản phẩm chai nước cam ép Splash có dị vật. Theo đó, bản án phúc thẩm số 42/2016 đã giữ nguyên hướng xử lý của bản án sơ thẩm số 06/2015 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Minh bởi vì vật chứng mà nguyên đơn khởi kiện không phải do Coca-Cola Việt Nam hoàn thiện (dập nắp) nên không có căn cứ xác định Coca-Cola Việt Nam có lỗi đối với hàng hóa có khuyết tật mà nguyên đơn khởi kiện.
Ngoài ra, Bản án số 06/2016/DSPT ngày 07/01/2016 của TAND tỉnh Bình Dương giữa nguyên đơn là ông Thơm, bà Tư (đại diện cho người bị thiệt hại đã chết là ông Đại) và bị đơn là Hộ kinh doanh cá thể “Thiện” về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do nổ bình gas gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cũng đề cập người tiêu dùng là cá nhân. Theo đó, bản án phúc thẩm này đã hủy bản án dân sự sơ thẩm số 59/2015/DSST ngày 25/09/2015 của TAND thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương và yêu cầu xét xử lại theo hướng phải bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng (dù người tiêu dùng có một phần lỗi là không khóa van gas nhưng đây không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại) và đưa chủ thể có liên quan đến quá trình sản xuất (doanh nghiệp tư nhân Hồng Mộc và công ty Nguyễn Lộc) vào tham gia tố tụng để xác định rõ trách nhiệm bồi thường. Trong vụ án này, ông Đại và bà Diền được xác định là người tiêu dùng. Đây là các cá nhân mua, sử dụng bình gas và đã bị thiệt hại do bình gas nổ (nguyên nhân được xác định là do ron cao su ở bộ phận van điều tiết bình gas bị xơ cứng, bề mặt ron co giãn không đều dẫn đến rò rỉ gas nhẹ).
Như vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta gần đây cho thấy người tiêu dùng được pháp luật bảo vệ chủ yếu là các cá nhân mua, sử dụng hàng hóa cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình. So với thực tiễn xét xử ở nước ngoài, tổ chức (pháp nhân công) cũng được coi là người tiêu dùng và được pháp luật bảo vệ. Ví dụ như: “Trong khuôn khổ của một hợp đồng cung cấp điện giữa một công ty địa phương và một xã, Tòa phúc thẩm Bordeaux đã phải tuyên bố về đặc điểm mang tính bất bình đẳng của một thỏa thuận quy định loại bỏ trách nhiệm của công ty trong trường hợp có rủi ro. Như vậy, vụ việc này đã cho thấy một công ty được gọi là “chủ thể kinh doanh” và một chủ thể công được nhìn nhận như là “người tiêu dùng”. Tòa án đã nhấn mạnh trong quyết định của mình rằng một hợp đồng thuê bao đã được ký giữa công ty điện và một xã tiêu dùng vì một điều khoản liên quan bị quy cho là không có giá trị.”[21]
Tóm lại, quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng đều cho thấy người tiêu dùng chủ yếu được thừa nhận và bảo vệ cho chủ thể là các cá nhân. Tuy nhiên, một số quốc gia và cả Việt Nam dù quy định chưa rõ ràng nhưng đã thừa nhận người tiêu dùng cũng có thể là các tổ chức với điều kiện tổ chức đó phải là chủ thể không kinh doanh hay là tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Trên thực tế, việc xác định trường hợp nào được coi là sử dụng cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt để phân biệt với mục đích sinh lợi đối với người tiêu dùng là tổ chức theo LBVQLNTD năm 2010 là vấn đề không đơn giản. Đồng thời, nếu tổ chức là pháp nhân thì có thể là pháp nhân phi thương mại hay pháp nhân thương mại theo BLDS năm 2015 nếu pháp nhân này chứng minh rằng mình mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích sinh lợi.
[20] Xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án tập 2, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr. 456 – 488.
[21] Cour d’appel de Bordeaux, 1ère ch., 2 juin 1997 Bull. inf. Ccass. 15 déc. 1997, p. 2. (Dẫn theo Pierre PinTat, “Luật về tiêu dùng và chủ thể công trong pháp luật của Pháp và Liên minh châu Âu”, Hội thảo về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Khoa Luật – ĐH Huế ngày 17 – 18/07/2017.
4. Một số kiến nghị
Để đảm bảo pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phát huy hiệu quả áp dụng trên thực tế, tạo điều kiện để các chủ thể được hưởng lợi ích hợp pháp từ việc áp dụng quy định của LBVQLNTD, trên cơ sở nghiên cứu pháp luật thực định, đặc biệt là các quy định mới của BLDS năm 2015, thực tiễn áp dụng và so sánh với pháp luật nước ngoài, tác giả xin đưa ra một số ý kiến, đề xuất như sau:
Thứ nhất, định nghĩa người tiêu dùng theo LBVQLNTD năm 2010 dù còn chưa được giải thích rõ ràng nhưng nhìn chung, so với pháp luật nước ngoài, Luật này đã có sự tiến bộ nhất định khi thừa nhận tổ chức cũng có thể được bảo vệ với tư cách là người tiêu dùng. Do đó, để tránh những cách hiểu khác nhau về định nghĩa người tiêu dùng tại khoản 1 Điều 3 LBVQLNTD, nếu sửa đổi LBVQLNTD năm 2010, chúng ta nên tách định nghĩa người tiêu dùng là cá nhân và tổ chức thành hai quy định riêng. Chẳng hạn như: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình; không vì mục đích sinh lợi.”; “Trường hợp tổ chức là người tiêu dùng thì phải là pháp nhân và việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích sinh lợi.”
Thứ hai, quy định về mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức thực sự rất khó xác định trên thực tế; do đó, chúng ta nên bỏ quy định này. Đồng thời, bổ sung quy định khác về người tiêu dùng là tổ chức hoạt động không vì mục đích sinh lợi để phân biệt với tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vì mục đích sinh lợi tại khoản 2 Điều 3 LBVQLNTD năm 2010. Ví dụ: “Trường hợp tổ chức là người tiêu dùng thì phải là pháp nhân và việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích sinh lợi”. Ở đây, việc giới hạn người tiêu dùng là pháp nhân và quy định việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích sinh lợi là để thuận tiện trong việc xác định tổ chức với tư cách người tiêu dùng trên thực tế và cũng phù hợp với quy định của BLDS năm 2015. Bởi lẽ, BLDS năm 2015 chỉ thừa nhận hai loại chủ thể độc lập trong quan hệ dân sự là cá nhân, pháp nhân (gồm pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại); còn hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân phải hoạt động thông qua các thành viên hoặc người đại diện, khi đó, các thành viên (thường là các cá nhân) hoặc người đại diện mới là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và được coi là người tiêu dùng (với tư cách là các cá nhân).
Thứ ba, trong khi LBVQLNTD năm 2010 sử dụng thuật ngữ “mục đích sinh lợi” của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thì BLDS năm 2015 lại sử dụng thuật ngữ “tìm kiếm lợi nhuận” để chỉ mục tiêu của pháp nhân thương mại (gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác) là không thống nhất mặc dù về bản chất là như nhau. Do đó, một trong hai thuật ngữ trên nên được lựa chọn để đảm bảo sự thống nhất trong các văn bản pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
CHÚ THÍCH
[1] Phan Thị Thanh Thủy, “Một số vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ bằng phương thức thương lượng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11 (343)/2016, tr. 54 – 55.
[2] Lê Minh Hùng, “Hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung – Nhìn từ góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Kỷ yếu Hội thảo: Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự, Khoa Luật Dân sự (Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh), tháng 06/2013, tr. 30 – 31.
[3] Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội, 2012, tr. 177.
[4] Trường ĐH Luật Hà Nội, tlđd, tr. 10 – 11.
[5] Lê Hồng Hạnh – Trần Thị Quang Hồng, “Luật Bảo vệ người tiêu dùng có nên quy định tổ chức là người tiêu dùng”, https://luatminhkhue.vn/kien-thuc-luat-dan-su/luat-bao-ve-nguoi-tieu-dung-co-nen-quy-inh-to-chuc-la-nguoi-tieu-dung-.aspx, truy cập ngày 21/11/2017.
[6] Về quy định này, có quan điểm cho rằng: “… quy định về khái niệm người tiêu dùng cần được sửa đổi theo hướng bổ sung thêm đoạn “nhằm các mục đích phi lợi nhuận” để quy định này có thể bao quát các trường hợp “tiêu dùng” khác (không vì mục đích lợi nhuận, nhưng cũng không nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, tổ chức). Theo đó, các trường hợp bên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vào mục đích công ích hay mục đích phi lợi nhuận khác như để thử nghiệm sản xuất, nghiên cứu khoa học… (ví dụ: việc mua và sử dụng các máy móc, thiết bị quang trắc dự báo thời tiết, các phương tiện, thiết bị điều tiết giao thông, chỉ dẫn đường bộ… phục vụ nhu cầu cộng đồng) cũng cần được xem là người tiêu dùng.” (Lê Minh Hùng, tlđd, tr. 52)
[7] Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên), Vai trò của Hội Bảo vệ người tiêu dùng trong việc bảo vệ người tiêu dùng, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2012, tr. 15. Theo đó, “người tiêu dùng gặp nhiều điểm bất lợi và có 4 yếu thế cơ bản so với thương nhân. Đó là: yếu thế về thông tin, yếu thế về khả năng đàm phán, yếu thế về khả năng chi phối giá cả và các điều kiện giao dịch, và yếu thế về khả năng chịu rủi ro phát sinh từ quá trình tiêu dùng hàng hóa. Bởi vậy, vì lợi nhuận, thương nhân làm ăn không chân chính sẵn sàng lợi dụng yếu thế này của người tiêu dùng mà xâm phạm quyền lợi của họ.”.
[8] Trường ĐH Luật Hà Nội, tlđd, tr. 12.
[9] Lê Hồng Hạnh – Trần Thị Quang Hồng, tlđd, truy cập ngày 21/11/2017.
[10] Khoản 1, 2 Điều 75 và khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật Dân sự năm 2015 về việc phân loại pháp nhân, có quan điểm cho rằng: “Theo chúng tôi, đây là một điểm có phần không hợp lý. Về mặt lý luận, đã dựa vào tiêu chí rõ ràng như trên để phân loại pháp nhân thì không cần thiết phải liệt kê ra từng loại pháp nhân”. (Xem: Trần Tuấn Vũ, “Những điểm mới của chế định pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số vấn đề liên quan”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01 (104)/2017, tr. 37.
[11] Pháp nhân thương mại (doanh nghiệp, tổ chức kinh tế) thì có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động kinh doanh, thương mại. Hoạt động này “không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, thương mại. Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn A được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực may mặc. Hoạt động của Công ty A không chỉ giới hạn ở việc may sản phẩm là hàng dệt may để phục vụ thị trường mà còn bao gồm cả hành vi mua nguyên vật liệu về để sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, thuê xe ô tô để đưa công nhân đi làm, đi nghỉ hàng năm theo chế độ hoặc mua một số ti vi để cho công nhân giải trí sau giờ làm việc,…”. (Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ – HĐTP TANDTC ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 29/3/2011).
[12] Trường ĐH Luật Hà Nội, tlđd, tr. 13 – 14.
[13] Article 2, Council Directive 93/13/EEC of 5 April 1993 on unfair terms in consumer contracts, http://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=celex:31993L0013, truy cập ngày 9/11/2017. Theo đó, “consumer” means any natural person who, in contracts covered by this Directive, is acting for purposes which are outside his trade, business or profession”
[14] Section 3, The Consumer Protection Act 1979 of Thailand, http://www.aseanconsumer.org/accp/download/Thailand/The%20Consumer%20Protection%20Act%201979.pdf, truy cập ngày 9/11/2017. Theo đó, “Consumer” means a person who buys or obtains services from a business man or a person who has been offered or invited by a businessman to purchase goods or obtain services and includes a person who duly uses good or a person who duly obtains services from a businessman even he/she is not a person who pays the remuneration”.
[15] Section 3 (1), The Consumer Protection Act 1999 of Malaysia, http://www.aseanconsumer.org/accp/download/Malaysia/Act%20599%20%20Consumer%20Protection%20Act%201999.pdf, truy cập ngày 9/11/2017. Theo đó, “Consumer” means a person who — (a) acquires or uses goods or services of a kind ordinarily acquired for personal, domestic or household purpose, use or consumption; and
(b) does not acquire or use the goods or services, or hold himself out as acquiring or using the goods or services, primarily for the purpose of— (i) resupplying them in trade; (ii) consuming them in the course of a manufacturing process; or (iii) in the case of goods, repairing or treating, in trade, other goods or fixtures on land;
[16] Aticle 4 (n), The Consumer Act 1992 of Philippines, http://www.aseanconsumer.org/accp/download/Philippines/Republic%20Act%20No.%207394%20-%20The%20Consumer%20Act%20of%201992.pdf, truy cập ngày 9/11/2017. Theo đó, “Consumer” means a natural person who is a purchaser, lessee, recipient or prospective purchase, lease or recipient of consumer products, services or credit”.
[17] Article 3, Code de la consummation, Modifié par LOI n°2017-203 du 21 février 2017 – art. 3, http://www.wipo.int/wipolex/en/text.jsp?file_id=363441, truy cập ngày 9/11/2017. Theo đó, “Au sens du présent code, est considérée comme un consommateur toute personne physique qui agit à des fins qui n’entrent pas dans le cadre de son activité commerciale, industrielle, artisanale ou libérale.”.
[18] Article liminaire, Code de la consommation 2014, https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do;jsessionid=29D7AB2D95F599F996D353A3217AE7FB.tplgfr41s_3?idSectionTA=LEGISCTA000032227360&cidTexte=LEGITEXT000006069565&dateTexte=20171114, truy cập ngày 14/11/2017. Theo đó, “non-professionnel: toute personne morale qui n’agit pas à des fins professionnelles”.
[19] Phan Thị Thanh Thủy, “Một số vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ bằng phương thức thương lượng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11 (343)/2016, tr. 55.
- Tác giả: ThS. Lê Thị Hồng Vân
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03(115)/2018 – 2018, Trang 43-50
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời