• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự 2015 và tác động đến lợi ích của các doanh nghiệp

Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự 2015 và tác động đến lợi ích của các doanh nghiệp

06/05/2020 22/05/2021 ThS. Nguyễn Hải An Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
  • 2. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai
  • 3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba
  • 4. Đăng ký biện pháp bảo đảm
  • 5. Xử lý tài sản bảo đảm
  • CHÚ THÍCH

Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự 2015 và tác động đến lợi ích của các doanh nghiệp

TÓM TẮT

Tác giả nêu các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015; phân tích những điểm sửa đổi, bổ sung các quy định bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành BLDS năm 2005 và chỉ ra những điểm còn tồn tại trong BLDS năm 2015. Đồng thời, tác giả đánh giá tác động của các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong BLDS năm 2015 đến lợi ích của doanh nghiệp, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn cho doanh nghiệp khi áp dụng các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự 2015 và tác động đến lợi ích của các doanh nghiệp

Xem thêm về “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”

  • Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam – ThS. Nguyễn Xuân Quang & ThS. Nguyễn Hồ Bích Hằng

TỪ KHÓA: thực hiện nghĩa vụ dân sự, biện pháp bảo đảm,

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với công dân nước láng giềng ở khu vực biên giới
  • Bàn về con dấu của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các quy định khác có liên quan
  • Tên doanh nghiệp và khả năng xâm phạm quyền đối với tên doanh nghiệp từ góc độ pháp luật sở hữu công nghiệp
  • Điều kiện áp dụng chế định hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong Bộ luật Dân sự Việt Nam - So sánh với Pháp luật Nhật Bản
  • Một số vấn đề về quyền tiếp cận thông tin môi trường
  • Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và việc giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
  • Một số góp ý về quy định liên quan đến tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)
  • Tổng thuật hội thảo khoa học Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014 – Những đổi mới nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh
  • Mối liên hệ của quyền về lối đi qua và các chế định khác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2013
  • Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vấn đề bảo đảm an ninh môi trường ở Việt Nam

Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 đã được Quốc hội hội thông qua ngày 24/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017). Đây là một trong những đạo luật quan trọng, là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự; ghi nhận và bảo vệ các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015) đã sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành BLDS năm 2005 với một trong những quan điểm chỉ đạo là: tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhìn từ góc độ lợi ích của doanh nghiệp, tác giả sẽ nêu các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong BLDS năm 2015 và tác động của nó.

1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

BLDS năm 2015 quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản.[1] Theo đó, BLDS năm 2015 đã phân định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được xác lập theo thỏa thuận là: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và các biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của pháp luật là cầm giữ tài sản. Trong đó, các biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận là các biện pháp bảo đảm bằng tài sản: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu và các biện pháp bảo đảm không bằng tài sản: bảo lãnh, tín chấp. Quy định mới này đã ghi nhận “Mỗi biện pháp bảo đảm có những tính chất, đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc thúc đẩy tiếp cận tín dụng có bảo đảm của nền kinh tế”. [2] Đồng thời, so với BLDS năm 2005 thì BLDS năm 2015 bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm mới là “cầm giữ tài sản” và “bảo lưu quyền sở hữu”. Tuy nhiên, đây không phải là các quy định hoàn toàn mới: trước đây các biện pháp này đã được quy định trong BLDS năm 2005, nhưng không được coi là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Theo BLDS năm 2005 thì cầm giữ tài sản được quy định như biện pháp theo đó bên có quyền sử dụng áp lực đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng song vụ.[3], có nghĩa là chiếm giữ tài sản để bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ. BLDS năm 2015 đã quy định cầm giữ tài sản là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được xác lập theo quy định của pháp luật.[4] Tương tự, bảo lưu quyền sở hữu được quy định tại BLDS năm 2005 là một thỏa thuận trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần.[5] Đến BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán được quy định là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.[6] Theo đó, trong hợp đồng mua bán tài sản, bên bán có thể bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản đến khi nghĩa vụ thanh toán được bên mua thực hiện đầy đủ nhằm đảm bảo cho các bên thực hiện các cam kết, thỏa thuận trong hợp đồng. Điều này, “Tạo tâm lý an tâm cho bên bán trong hoạt động mua bán hàng hóa nếu bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận”[7]. Với hai biện pháp đảm bảo mới này, BLDS năm 2015 quy định phù hợp với tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Chúng ta phải thừa nhận: “Việc 2 nội dung này đã được nâng tầm lên trở thành các biện pháp bảo đảm cho thấy cách tiếp cận mong muốn nhấn mạnh hơn của Bộ luật vào tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tồn tại trong hai biện pháp này chứ không chỉ là một nội dung đơn thuần trong các quy định về các loại hợp đồng”. [8] Từ góc độ lợi ích của doanh nghiệp là bên thực hiện nghĩa vụ bảo đảm, hai biện pháp bảo đảm mới là “cầm giữ tài sản” và “bảo lưu quyền sở hữu” vừa tạo ra thuận lợi, vừa gây trở ngại khó khăn: nếu doanh nghiệp lựa chọn biện pháp bảo đảm “cầm giữ tài sản” cho bên nhận bảo đảm thì chỉ khi doanh nghiệp thực hiện xong nghĩa vụ, tài sản bảo đảm mới được hoàn trả lại cho doanh nghiệp; nếu doanh nghiệp lựa chọn biện pháp bảo đảm “bảo lưu quyền sở hữu” cho bên nhận bảo đảm, thì khi doanh nghiệp chưa thực hiện xong nghĩa vụ, tài sản bảo đảm vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, chúng ta nhận thấy còn một số bất cập liên quan đến biện pháp bảo đảm mới chưa được lý giải. So sánh giữa hai biện pháp bảo đảm là cầm giữ tài sản và cầm cố tài sản thì: “Đây là hai khái niệm thường gây nhầm lẫn dẫn đến sự hiểu sai của người áp dụng pháp luật”[9]. Đối với cầm giữ tài sản, đối tượng của hợp đồng là tài sản được cầm giữ, cũng chính là đối tượng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và việc cầm giữ chỉ phát sinh khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng. Giống như cầm cố tài sản, bên nhận cầm giữ hay bên nhận cầm cố chiếm giữ tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và khai thác tài sản để thu hoa lợi, lợi tức từ tài sản nếu có thỏa thuận. Nhưng pháp luật chưa quy định rõ bên nhận cầm giữ tài sản có được khai thác tài sản, cho thuê, cho mượn như bên cầm cố hay không. Do đó, đến hạn thực hiện nghĩa vụ, nếu doanh nghiệp có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có yêu cầu có thể cầm giữ tài sản là đối tượng của hợp đồng để buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng; không được sự đồng ý của doanh nghiệp thì tài sản là đối tượng trong hợp đồng vừa là tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được bảo toàn giá trị.

2. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai

Trước đây, khái niệm tài sản hình thành trong tương lai xuất phát yêu cầu từ vốn vay; cụ thể: “Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng”. [10] Đến BLDS năm 2005 ghi nhận: “Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết”. [11] Tiếp đó, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định về tài sản bảo đảm đã đưa ra khái niệm tài sản hình thành trong tương lai như sau “Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. [12] Đồng thời, Luật Thương mại xác định hàng hoá gồm: “Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai”; [13]  Luật Nhà ở đã quy định: “Trường hợp chủ đầu tư huy động vốn từ tiền ứng trước của người có nhu cầu mua hoặc thuê nhà ở thì chỉ được áp dụng trong trường hợp thiết kế nhà ở đã được phê duyệt và đã được xây dựng xong phần móng. Tổng số tiền huy động trước khi bàn giao nhà ở cho người có nhu cầu không được vượt quá 70% giá trị nhà ở ghi trong hợp đồng”. [14] Hay Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006 quy định: “Mua bán nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai là việc mua bán nhà, công trình xây dựng mà tại thời điểm ký hợp đồng, nhà, công trình xây dựng đó chưa hình thành hoặc đang hình thành theo hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công và tiến độ cụ thể”. [15] Từ chỗ khái niệm tài sản hình thành trong tương lai chỉ được áp dụng trong văn bản liên quan đến giao dịch bảo đảm mà đã mở rộng sang kinh doanh bất động sản.

Sau đó, liên quan tới giao dịch bảo đảm, khái niệm tài sản hình thành từ vốn vay là một loại tài sản hình thành trong tương lai được quy định: “Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc được giao quyền sử dụng; giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Nếu tài sản là bất động sản gắn liền với đất thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật”. [16] Từ đó, tài sản hình thành từ vốn vay được xác định là bất động sản hình thành trong tương lai. Tiếp đó, về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 85/2002/NĐ-CP của Chính phủ: “Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng; xác định được giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay là vật tư hàng hóa, thì ngoài việc có đủ các điều kiện này, tổ chức tín dụng phải có khả năng quản lý, giám sát tài sản bảo đảm”. [17] Hiện nay, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 chỉ rõ “1. Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm giao dịch. 2. Tài sản hình thành trong tương lai gồm:a) Tài sản được hình thành từ vốn vay;b) Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; c) Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất”[18]. Với quy định này, khái niệm tài sản hình thành trong tương lai khai quát cụ thể hơn, không chỉ dựa trên mục đích sử dụng vốn là tài sản được hình thành từ vốn vay mà căn cứ vào quá trình hình thành tài sản, thời điểm xác lập quyền sở hữu và thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm để xác định rõ ràng một tài sản hình thành trong tương lai.

BLDS năm 2005 đã có quy định phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai.[19] Quy định này được BLDS năm 2015 tiếp tục ghi nhận: “Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai”. [20] Việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai được thể hiện: “1. Trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai, các bên có quyền thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó”. [21] Điều đó cho thấy, BLDS năm 2015 cũng đã đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện giao dịch bảo đảm nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Theo đó, các bên chỉ cần tiến hành thoả thuận, giao kết một lần về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó như ký kết lại hợp đồng bảo đảm hay đăng ký biện pháp bảo đảm. Song BLDS năm 2015 lại chưa quy định cụ thể nguồn gốc tạo lập tài sản hình thành trong tương lai, các nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Hiện nay, hầu hết các chủ đầu tư thế chấp quyền sử dụng đất và dự án xây dựng nhà chung cư là bất động sản hình thành trong tương lai để vay vốn xây dựng; sau đó, các cá nhân, tổ chức lại thế chấp một lần nữa từng căn hộ chung cư trong dự án đó để vay tiền mua nhà; từ đó, nguồn gốc tạo lập tài sản hình thành trong tương lai, các nghĩa vụ hình thành trong tương lai của doanh nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp mua nhà chung cư có sự chồng lấn, dẫn đến xử lý tài sản hình thành trong tương lai không được rõ ràng.

3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba

BLDS năm 2015 quy định hiệu lực đối với với người thứ ba như sau: “1. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. 2. Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.[22] Thực chất, khái niệm “hiệu lực đối kháng với người thứ ba” có ý nghĩa tương đồng với “có giá trị pháp lý đối với người thứ ba”[23] của BLDS năm 2005. Nhưng bản chất pháp lý đã có sự thay đổi, việc đăng ký biện pháp bảo đảm là quyền của công dân và chỉ có giá trị đối kháng với người thứ ba mà không phải đăng ký nhằm xác lập quyền. Chính vì lẽ đó, đăng ký biện pháp bảo đảm chỉ mang tính bắt buộc và có hiệu lực khi pháp luật có quy định; đồng thời, tách thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm với thời điểm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Quy định mới này có ý nghĩa: “Khi nhìn nhận đăng ký biện pháp bảo đảm với tư cách quyền dân sự của người dân, thì cơ chế pháp lý điều chỉnh sẽ phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, những quy định cản trở người dân thực hiện quyền sẽ phải bị loại bỏ, thay bằng những quy định hỗ trợ và tạo thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền của mình”[24].

Khái niệm “quyền truy đòi” nêu trên của BLDS năm 2015 có ý nghĩa tương đồng với “trả lại tài sản” của bên nhận cầm cố đối với trường hợp tài sản bị người khác chiếm giữ của BLDS năm 2005.[25] Với quy định này, pháp luật đã dành quyền chủ động cho bên xử lý tài sản bảo đảm “đến cùng”. Song quyền này chỉ có ý nghĩa thực thi trên thực tế khi doanh nghiệp là bên có nghĩa vụ phải hợp tác và có thiện chí của chủ sở hữu tài sản. Trong BLDS năm 2005 đã có quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm,[26] còn BLDS năm 2015 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba: “1. Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau: a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng; b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước; c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm”[27]. Theo đó, BLDS năm 2015 không giới hạn thứ tự ưu tiên thanh toán bởi thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm và thứ tự xác lập giao dịch mà được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng và thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm. Do đó, chúng ta thừa nhận: “BLDS năm 2015 đã không chỉ dựa vào yếu tố đăng ký biện pháp bảo đảm để xác lập thứ tự ưu tiên thanh toán mà còn dựa vào thứ tự nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm”[28]. Hầu hết các doanh nghiệp khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đều kèm theo lựa chọn các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng và thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm tạo ra cơ chế minh bạch trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm cho các doanh nghiệp.

4. Đăng ký biện pháp bảo đảm

Trên cơ sở quy định đăng ký giao dịch bảo đảm của BLDS năm 2005,[29] đến BLDS năm 2015 quy định đăng ký biện pháp bảo đảm như sau: “1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định. 2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. 3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm”. [30] Điểm mới thể hiện ở chỗ, BLDS năm 2015 quy định đăng ký đối với biện pháp bảo đảm, chứ không phải đăng ký đối với giao dịch bảo đảm về nội dung thỏa thuận của các bên về biện pháp bảo đảm như BLDS năm 2005. Theo quy định của BLDS năm 2005, đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để xác định giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý với người thứ ba. Còn theo BLDS năm 2015, đăng ký biện pháp bảo đảm có ý nghĩa là phương thức để biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Từ đó, bên nhận tài sản bảo đảm được công khai quyền bảo đảm bằng tài sản để đối kháng với người thứ ba trong trường hợp có nhiều lợi ích được thiết lập lên một tài sản; khi biện pháp bảo đảm được đăng ký thì người thứ ba có lợi ích đối kháng với bên nhận bảo đảm phải tôn trọng quyền được bảo đảm bằng tài sản của bên nhận bảo đảm. Đồng thời, công bố hạn chế quyền của bên có tài sản bảo đảm và thông báo với các chủ thể khác chưa xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba đối với biện pháp bảo đảm. Có nghĩa là, “Việc đăng ký chỉ có ý nghĩa trong việc phân định thứ tự ưu tiên bảo vệ lợi ích được bảo đảm trong trường hợp có sự đối kháng về lợi ích, hay nói cách khác có nhiều lợi ích đối kháng cùng xác lập lên một tài sản bảo đảm, chứ không phải là điều kiện để giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba”. [31] Từ đó, các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp được công khai, minh bạch, không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự kiểm soát chặt chẽ được việc thực hiện nghĩa vụ của các bên, mà còn bảo vệ được lợi ích của doanh nghiệp là người thứ ba có liên quan.

Tuy nhiên, nội dung quy định nêu trên chưa rõ ràng về hiệu lực của đăng ký giao dịch bảo đảm. Chúng ta có thể hiểu đơn giản là việc đăng ký biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối với các bên theo thỏa thuận và có hiệu lực đối với người thứ ba khi luật quy định. Có ý kiến băn khoăn rằng: “Chúng ta chưa rõ đó là hiệu lực đối kháng với người thứ ba như nêu trên (tức là không đăng ký theo luật định như quy định trong Luật Đất đai thì giao dịch vẫn có hiệu lực giữa các bên nhưng không có hiệu lực đối kháng với người thứ ba) hay là điều kiện có hiệu lực thông thường (tức thiếu việc đăng ký thì giao dịch bảo đảm vô hiệu)”. [32] Song nếu chúng ta nghiên cứu một cách tổng thể các quy định mới về các biện pháp bảo đảm của BLDS năm 2015 có thể lý giải, một biện pháp bảo đảm luật quy định phải đăng ký, nếu các bên tham gia giao dịch bảo đảm thỏa thuận không đăng ký, thì giao dịch bảo đảm đó vẫn có hiệu lực với các bên, nhưng không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

5. Xử lý tài sản bảo đảm

Chúng ta đều biết, chỉ xử lý tài sản bảo đảm khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận. BLDS năm 2015 đã quy định các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tạo điều kiện và dành thế chủ động cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm như: quyền truy đòi tài sản bảo đảm để xử lý của bên nhận bảo đảm;[33] quyền tự bán tài sản bảo đảm hay bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm theo thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với tài sản cầm cố, thế chấp.[34] Tuy nhiên, như trên đã nêu, tất cả những phương thức nêu trên chỉ có hiệu quả và bảo đảm được quyền lợi cho bên nhận tài sản bảo đảm khi chủ sở hữu tài sản có thiện chí hợp tác.

Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 có quy định xử lý tài sản bảo đảm khi bên nhận bảo đảm được quyền nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm nếu có thỏa thuận khi xác lập giao dịch bảo đảm: “Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm”[35] hay thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp: “Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm”. [36] Thực tế, giá trị tài sản bảo đảm khi xử lý theo thời giá có thể nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được xác định khi giao kết giao dịch bảo đảm; dẫn đến có một phần nghĩa vụ chưa được thanh toán; với quy định phần nghĩa vụ chưa được thanh toán trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm là có lợi cho bên có nghĩa vụ; nhất là đối với các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về nghĩa vụ tài chính.

Ngoài ra, BLDS năm 2015 đã quy định rõ ràng về thế chấp quyền sử dụng đất với hai trường hợp cụ thể: trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất như sau: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” và “Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. [37] Như vậy, BLDS năm 2015 cho phép xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo đảm. Thực tế chio thấy, có trường hợp khi vay vốn thông qua các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất đã dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Chúng tôi đồng tình với đánh giá: “Đây được xem là giải pháp quan trọng có tính chất đột phá của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và ngược lại”. [38] Song chúng ta cũng không khỏi băn khoăn khi có ý kiến: “Thoạt nhìn dường như quy định trên giúp giảm thiểu rủi ro và bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp bị giảm sút. Song nếu chủ thể dùng một tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để thế chấp bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì quy định trên lại mang rủi ro cho chủ thể nhận thế chấp sau”. [39] Với quy định trên, có những vấn đề chưa rõ ràng khi xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp là: nếu một quyền sử dụng đất doanh nghiệp thế chấp cho nhiều nghĩa vụ bảo đảm thì tài sản gắn liền với đất thuộc về bên nhận thế chấp nào; đồng thời, nếu tài sản được xử lý không phải là tài sản thế chấp, thì khoản tiền thu được từ việc bán tài sản này có được thanh toán cho bên nhận thế chấp trong trường hợp các bên không có thỏa thuận hay vẫn thuộc tài sản của doanh nghiệp là bên có tài sản bảo đảm.

Với mục tiêu tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, bảo vệ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, chúng ta hy vọng BLDS năm 2015 trong tương lai thực sự trở thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, trong đó có các quan hệ kinh doanh, thương mại..

CHÚ THÍCH

[1] Điều 292 BLDS năm 2015.

[2] Nguyễn Quang Hương Trà, “Những điểm mới của chế định đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của BLDS năm 2015 và yêu cầu đặt ra đối với việc triển khai thi hành”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Bình luận một số điểm mới của BLDS năm 2015”, Trường Đại học Luật Hà Nội, tháng 6 năm 2016.

[3] Khoản 1 Điều 416 BLDS năm 2005. Cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ: “Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang chiếm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ được cầm giữ tài sản khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận”.

[4] Từ Điều 347 đến Điều 350 BLDS năm 2015.

[5] Khoản 1 Điều 461 BLDS năm 2005. Mua trả chậm, trả dần: “Các bên có thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận vật mua; bên bán được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với vật bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

[6] Điều 331 đến Điều 334 BLDS năm 2015.

[7] Đặng Thị Vũ Hường “Một số trao đổi liên quan đến “Các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ” theo BLDS năm 2015”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Một số điểm mới của BLDS năm 2015, Khoa Luật Trường Đại học Ngoại thương, tháng 6 năm 2016.

[8] Trần Ngọc Hiệp, “Những điểm mới của BLDS năm 2015 về giao dịch bảo đảm”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Một số điểm mới của BLDS năm 2015, Trường Đại học Luật Hà Nội, tháng 6 năm 2016.

[9] Đặng Thị Vũ Hường, Tlđd.

[10] Khoản 5 Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

[11] Khoản 2 Điều 320 BLDS năm 2005.

[12] Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

[13] Điểm a Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005.

[14] Khoản 1 Điều 39 Luật Nhà ở năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[15] Khoản 8 Điều 4 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006.

[16] Điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

[17] Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.

[18] Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

[19] Điều 319 BLDS năm 2005: “Phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

1. Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.

2. Các bên được thỏa thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, kể cả nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.”

[20] Khoản 2 Điều 295 BLDS năm 2015.

[21] Điều 294 BLDS năm 2015.

[22] Điều 297 BLDS năm 2015.

[23] Khoản 3 Điều 323 BLDS năm 2005: Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.

[24] Nguyễn Quang Hương Trà, Tlđd.

[25] Khoản 1 Điều 333 BLDS năm 2005: “Quyền của bên nhận cầm cố tài sản

Bên nhận cầm cố tài sản có các quyền sau đây: Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó”.

[26] Điều 325 BLDS năm 2005: “Thứ tự ưu tiên thánh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định như sau:

1. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký thì việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định theo thứ tự đăng ký;

2. Trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán;

3. Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà các giao dịch bảo đảm đều không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm”.

[27] Điều 308 BLDS năm 2015.

[28] Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015, Nxb Hông Đức – Hội Luật gia Việt Nam. 2016

[29] Điều 323 BLDS năm 2005: “Đăng ký giao dịch bảo đảm

1. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này.

2. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định.

3. Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký”.

[30] Điều 298 BLDS năm 2015.

[31] Nguyễn Quang Hương Trà, Tlđd.

[32] Đỗ Văn Đại, Tlđd, tr. 311.

[33] Khoản 2 Điều 297 BLDS năm 2015.

[34] Điểm b, c khoản 1 Điều 303 BLDS năm 2015.

[35] Khoản 3 Điều 305 BLDS năm 2015.

[36] Khoản 3 Điều 307 BLDS năm 2015.

[37] Khoản 1 Điều 325 BLDS năm 2015 và khoản 1 Điều 326 BLDS năm 2015

[38] Nguyễn Quang Hương Trà, Tlđd.

[39] Phan Thị Hồng, “Điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 về cầm cố và thế chấp tài sản”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Một số điểm mới của BLDS năm 2015, Khoa Luật Trường Đại học Ngoại thương, tháng 6 năm 2016.

  • Tác giả: ThS. Nguyễn Hải An
  • Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(105)/2017 – 2017, Trang 60-68
  • Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Thực trạng pháp luật lao động về giải quyết vấn đề nhân sự khi mua bán, sáp nhập Ngân hàng thương mại và một số kiến nghị
Thực trạng pháp luật lao động về giải quyết vấn đề nhân sự khi mua bán, sáp nhập Ngân hàng thương mại và một số kiến nghị
Bảo đảm tính thống nhất giữa bộ luật lao động với pháp luật thanh tra và chuẩn mực quốc tế về thanh tra lao động
Bảo đảm tính thống nhất giữa Bộ luật Lao động với pháp luật thanh tra và chuẩn mực quốc tế về thanh tra lao động
Kỷ luật lao động theo dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) và một số kiến nghị
Kỷ luật lao động theo dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) và một số kiến nghị
Thỏa thuận không cạnh tranh sau khi chấm dứt hợp đồng lao động - Kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam
Thỏa thuận không cạnh tranh sau khi chấm dứt hợp đồng lao động – Kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động
Một số góp ý về quy định liên quan đến tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)
Một số góp ý về quy định liên quan đến tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)

Chuyên mục: Dân sự/ Doanh nghiệp/ Luật Dân sự Việt Nam Từ khóa: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ/ Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02/2017

Previous Post: « Thực tiễn hợp tác đánh bắt cá trên các vùng biển tranh chấp và bài học kinh nghiệm cho các nước trong khu vực Biển Đông
Next Post: Quy định về sáng chế dược phẩm của hiệp định đối tác xuyên thái bình dương (TPP) và ảnh hưởng đến chiến lược phát triển dược phẩm Việt Nam »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng