Mục lục
Một số bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và phương hướng hoàn thiện
Tác giả: Vũ Thanh Tuấn
Tóm tắt
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 với nhiều nội dung mới liên quan đến thủ tục tố tụng giải quyết vụ việc dân sự, như quy định về việc thu thập tài liệu chứng cứ, công khai chứng cứ và hòa giải; thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa với trình tự thủ tục khoa học, mang đậm yếu tố dân sự; thẩm quyền trong việc thụ lý, giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn; giải quyết vụ án khi chưa có điều luật áp dụng… Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành, BLTTDS năm 2015 còn bộc lộ những hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ việc dân sự; quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm có nhiều tình huống, vướng mắc và bất cập, gây không ít khó khăn cho thẩm phán khi tiến hành tố tụng. Bài viết phân tích một số quy định của BLTTDS chưa hợp lý, còn nhiều cách hiểu khác nhau và đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự.
Thủ tục tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng việc giải quyết các vụ án dân sự. Thực tiễn cho thấy, khi giải quyết vụ án dân sự không chỉ đòi hỏi năng lực của những người tiến hành tố tụng, mà cần thiết phải có một thủ tục tố tụng khoa học, hợp lý, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đáp ứng được cuộc cách mạng công nghệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thủ tục tố tụng dân sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong bối cảnh các tranh chấp dân sự gia tăng cả về số lượng và sự phức tạp.
1. Phân loại án và cơ chế phân công giải quyết vụ án dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định người có thẩm quyền phân công thẩm phán giải quyết vụ án là Chánh án hoặc Phó Chánh án (được Chánh án ủy nhiệm). Hiện nay, các Tòa án có những cách thức tổ chức xét xử – phân công giải quyết các vụ án khác nhau, thông thường lãnh đạo Tòa án phân công giải quyết án trên cơ sở khối lượng công việc, trình độ và kinh nghiệm của thẩm phán. Quy định về nguyên tắc phân công vụ án vô tư, khách quan và ngẫu nhiên lần đầu tiên được quy định tại BLTTDS. Tại Điều 197 quy định “… Chánh án Tòa án quyết định phân công thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên”. Vấn đề đặt ra là chưa có một cơ chế để kiểm soát, đánh giá “vô tư, khách quan ngẫu nhiên” trong việc phân công giải quyết vụ án. Pháp luật tố tụng cũng chưa có quy định phân loại đánh giá mức độ khó, phức tạp của mỗi vụ án để phân công giải quyết cho cân bằng giữa các thẩm phán trong cùng một Tòa án. Do đó, để xác định sự “cân bằng” trong phân công giải quyết giữa các thẩm phán là một vấn đề không dễ dàng. Vẫn biết mỗi vụ án đều có tính phức tạp riêng, để đánh giá mức độ khó, phức tạp mỗi vụ án phụ thuộc vào chủ quan mỗi người, ở khía cạnh khác nhau, đặc biệt là các tài liệu kèm theo đơn khởi kiện chưa thể đánh giá hết được mức độ dễ – khó. Tuy nhiên, chúng ta đều xác định được các vụ án về ly hôn mà các bên đương sự đều thỏa thuận được việc giải quyết vụ án, chắc chắn là dễ dàng hơn nhiều đối với các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc tranh chấp chia thừa kế về tài sản. Quy định của BLTTDS và thực tế đang diễn ra trong hệ thống Tòa án, thời gian giải quyết vụ án về ly hôn mà các đương sự thống nhất, sau đó Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận có thể chỉ kéo dài khoảng 15 ngày đến 20 ngày. Ngược lại, viêc giải quyết các vụ án (đặc biệt là các vụ án sơ thẩm) tranh chấp về quyền sử dụng đất; chia thừa kế… có thể kéo dài đến hàng năm, cá biệt có vụ án kéo dài đến nhiều năm. Hiện nay việc xác định số lượng vụ án đã giải quyết có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi thẩm phán trong việc thi đua và tái nhiệm lại thẩm phán. Trong khi, thẩm phán giải quyết vụ án thì vụ án dễ hoặc khó cũng chỉ tính thành tích 01 vụ án. Ngoài ra, một yếu tố nữa dẫn đến việc thẩm phán ngại hoặc không thích giải quyết các vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp nhà, thừa kế… vì những vụ án đó có nguy cơ bị hủy, sửa rất cao, ảnh hưởng bất lợi đến việc bổ nhiệm lại của thẩm phán.
Do đó, trên thực tế, một số thẩm phán không muốn làm những vụ án phức tạp, như các vụ án quan hệ tranh chấp về tài chính, ngân hàng, thừa kế tài sản, mốc giới sử dụng đất… hoặc có đối tượng tranh chấp về nhà, quyền sử dụng đất, tài sản ở nhiều địa phương, ở nước ngoài… Điều đó ảnh hưởng đến tính khách quan trong việc giải quyết các vụ án. Với việc quy định phân công vụ án phải dựa trên nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên góp phần bảo đảm nguyên tắc độc lập, công bằng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi lãnh đạo Tòa án có quyền phân công các vụ án phải công tâm, vì công việc không vì tình cảm, tài chính. Đồng thời, hệ thống Tòa án nhân dân cần xây dựng hệ thống phần mềm toàn quốc về việc phân công vụ án trên cơ sở dữ liệu về nội dung khởi kiện; quan hệ tranh chấp; giá trị tài sản; số lượng đương sự. để đảm bảo sự công bằng giữa các thẩm phán với nhau trong cùng đơn vị hoặc giữa thẩm phán giữ chức vụ quản lý với các thẩm phán khác. Hệ thống phần mềm toàn quốc về phân công các vụ án được thực hiện bằng cách đương sự, người dân trực tiếp thao tác trên máy tính (hoặc nút bấm), từ đó xác định luôn được tên thẩm phán, người tiến hành tố tụng trên màn hình, phiếu hẹn trả kết quả. Thông qua đó, thẩm phán sẽ hạn chế được sự phụ thuộc “hành chính” vào lãnh đạo Tòa án. Đó cũng là cơ sở để thẩm phán được độc lập khi xét xử, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích của người dân.
2. Thủ tục giao, nhận các văn bản tố tụng cho đương sự
Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán phải thực hiện rất nhiều các thủ tục thông báo, giao nhận các văn bản tố tụng cho các đương sự. Mặc dù, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 quy định về 93 biểu mẫu tố tụng khi giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, ngoài việc tuân thủ 93 biểu mẫu trên, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, có nhiều thủ tục khác mà BLTTDS quy định phải thông báo cho đương sự biết, như thông báo về việc Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thu thập; thông báo về kết quả thẩm định; thông báo về kết quả định giá cho đương sự vắng mặt… Tuy nhiên có nhiều vụ án, đương sự gây khó khăn, không hợp tác, không nhận các loại quyết định, thông báo… dẫn đến Tòa án phải thực hiện việc niêm yết. Trong khi thủ tục niêm yết phải đảm bảo thời hạn là 15 ngày. Chính vì vậy, nếu mọi quyết định, thông báo đều phải thực hiện việc niêm yết thì việc giải quyết nhiều vụ án gặp khó khăn, kéo dài, gây mất thời gian và chi phí tố tụng, ảnh hưởng đến sự chủ động, linh hoạt và quyền hạn của thẩm phán. Do đó, BLTTDS cần quy định cho thẩm phán trước khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì sẽ thông báo tổng hợp một lần việc thu thập, tài liệu, chứng cứ, thẩm định và định giá… cho đương sự biết để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, để đương sự thực hiện đầy đủ, đúng quyền và nghĩa vụ của mình, ngay khi thụ lý vụ án, cần phải có quy định thẩm phán thông báo bằng văn bản cho đương sự biết về quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng, khi xét xử tại phiên tòa, phiên họp. Mục đích của việc thông báo để đương sự có thể thực hiện đầy đủ các quyền của mình như: Yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, cung cấp các tài liệu chứng cứ, đề nghị triệu tập thêm người làm chứng… trước khi phiên tòa, phiên họp được diễn ra tránh việc phải hoãn. Việc thông báo trước quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng là để rút ngắn phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phiên họp. Chủ tọa chỉ cần hỏi đương sự về những quyền và nghĩa vụ đã được thông báo có cần phải giải thích thêm nội dung quyền và nghĩa vụ nào nữa không, mà không cần phải giải thích cụ thể từng quyền và nghĩa vụ.
3. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự khi đương sự vắng mặt
BLTTDS quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm đối với mọi vụ án dân sự và trong mọi trường hợp, thẩm phán đều phải giải quyết trong một thời hạn và quy trình thống nhất. Trong vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, nếu có đương sự vắng mặt thì thẩm phán vẫn phải thực hiện đầy đủ các quy trình tố tụng sau: Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm phán phải giao thông báo thụ lý, giấy triệu tập; sau khi xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ thì phải thông báo cho đương sự trong thời hạn 03 ngày (Khoản 5 Điều 97); thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp tài liệu, chứng cứ; thông báo hoãn phiên họp nếu có người vắng mặt; giao quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập… Tại phiên tòa, nếu có đương sự vắng mặt, thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX) vẫn phải tiến hành đầy đủ các thủ tục, các bước theo quy định. Các quy định hiện tại cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt. Do đó, cần phải quy định trình tự thủ tục tố tụng mở, linh hoạt đối với một số trường hợp, để thẩm phán chủ động xét xử nhưng vẫn bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các đương sự, cụ thể:
Một là, đối với trường hợp nếu một bên đương sự vắng mặt, nếu thực hiện theo đúng tố tụng thì Tòa án phải thực hiện việc niêm yết trong thời hạn 15 ngày cho mỗi thủ tục tố tụng trên, theo thứ tự và kế tiếp về thời gian. Với quy định của tố tụng dân sự hiện tại, giải quyết vụ án dân sự đối với trường hợp đương sự không hợp tác, không đến Tòa án làm việc sẽ mất nhiều thời gian, công sức và chi phí tố tụng. Do đó, BLTTDS cần có quy định thẩm phán chỉ cần thông báo một lần, hoặc niêm yết một lần bằng văn bản (gồm nhiều nội dung trong một văn bản) yêu cầu đương sự phải có mặt tại Tòa án với thời gian cụ thể, kế tiếp nhau để tham gia các thủ tục tố tụng như tự khai, công khai chứng cứ, hòa giải, xét xử… Nếu đương sự đến Tòa án để tham gia thì thẩm phán thực hiện theo trình tự tố tụng thông thường; trường hợp đương sự vẫn không có mặt như trong thời gian đã giao hoặc niêm yết thì thẩm phán vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng mà không phải hoãn hoặc triệu tập, niêm yết lại.
Hai là, đối với trường hợp vụ án chỉ có một bên đương sự có mặt tại phiên tòa, cần quy định thủ tục đơn giản, bỏ nội dung thủ tục tranh luận tại phiên tòa; trường hợp cả hai bên đương sự đều vắng mặt thuộc trường hợp vẫn phải xét xử thì thẩm phán, HĐXX chỉ cần Đại diện viện kiểm sát cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (nếu có) đưa ra ý kiến, sau đó thẩm phán, HĐXX nghị án và đưa ra quyết định.
4. Quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cập, công khai chứng cứ
Trên thực tiễn những vụ án dân sự phức tạp, liên quan đến nhiều chủ thể, nhiều lĩnh vực, khối lượng tài sản l(ón… số tài liệu, chứng cứ đến hàng nghìn bút lục, nếu thực hiện đúng quy định của tố tụng thì thời gian tổ chức phiên họp kéo dài cả ngày hoặc nhiều ngày. Trong khi đó, theo quy định giữa các bên đương sự đã gửi bản sao tài liệu cho nhau; đối vói tài liệu, chứng cứ của Tòa án thu thập cũng đã thông báo cho đương sự hoặc các đương sự đã yêu cầu sao chụp. Do đó, cần sửa đổi (hoặc Hội đồng thẩm phán hưóng dẫn) quy định cho thẩm phán chỉ phải thông báo tên đề mục các tài liệu, nếu đương sự có yêu cầu nội dung cụ thể của tài liệu nào thì thẩm phán mói phải công khai tài liệu đó vì các đương sự đã có hoặc đã nhận được bản sao các tài liệu đó. Ngoài ra, thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có thể thực hiện nhiều lần, tùy từng loại vụ án và trường hợp cụ thể, như trường hợp xuất hiện tài liệu chứng cứ mói hoặc đương sự mói. Thẩm phán có thể tiến hành thông báo và tiến hành phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong cùng một buổi hoặc tổ chức phiên họp ở các ngày khác nhau cho phù hợp vói từng vụ án khác nhau.
5. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thẩm phán dự khuyết
BLTTDS lần đầu tiên quy định việc phân công thẩm phán dự khuyết cùng vói thẩm phán giải quyết vụ án, theo Điều 197 quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công thẩm phán giải quyết vụ án. Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu và Tòa án phải thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thẩm phán dự khuyết trong hoạt động chuẩn bị xét xử; không quy định thẩm phán dự khuyết có quyền hạn hoặc ý kiến, đề xuất đối với hoạt động thu thập tài liệu chứng cứ của thẩm phán giải quyết vụ án. Thực tiễn có trường hợp, khi vụ án đưa ra xét xử, thẩm phán giải quyết vụ án không thể tiến hành nhiệm vụ thì thẩm phán dự khuyết thay, nhưng thẩm phán dự khuyết cho rằng tài liệu, chứng cứ đó chưa đầy đủ, thiếu người tiến hành tố tụng hoặc việc thu thập tài liệu, chứng cứ của thẩm phán giải quyết vụ án là vi phạm tố tụng cần phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ, bổ sung thêm người tham gia tố tụng, dẫn đến vụ án kéo dài, lãng phí về thời gian và kinh tế…
6. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng công nghệ
Thực tế, trong thời gian qua khi giao các văn bản tố tụng cho đương sự để thẩm phán thực hiện giải quyết vụ án dân sự gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém về tài chính, ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ án của thẩm phán. Một mặt do đương sự, người tham gia tố tụng đi làm trong giờ hành chính hoặc công việc không ổn định, làm việc ở nhiều địa phương khác nhau, không có địa chỉ hoặc địa chỉ không rõ ràng… Mặt khác, đa số các vụ án tranh chấp dân sự sơ thẩm, bị đơn không hợp tác, trốn tránh làm việc và nhận văn bản tố tụng của Tòa án. Để bảo đảm việc tống đạt các văn bản tố tụng, các Tòa án đã chi phí lớn cho việc gửi bảo đảm thông qua dịch vụ. Một số Tòa án như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội… chi phí lớn để thực hiện việc giao các văn bản tố tụng thông qua tổ chức thừa phát lại… Do đó, việc áp dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục tố tụng là đòi hỏi cần thiết.
Một là, thủ tục giao các văn bản tố tụng.
Các lĩnh vực khác trong cuộc sống trong đó có lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, thủ tục hành chính công… đã và đang áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp 4.0 vào hoạt động của mình. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân vẫn tồn tại với thủ tục tố tụng cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt. BLTTDS năm 2015 quy định gần như mọi thủ tục tố tụng của Tòa án đều phải thực hiện trực tiếp giữa người tiến hành tố tụng với các chủ thể khác. Đơn giản như thủ tục giao các văn bản tố tụng cho đương sự, pháp luật tố tụng quy định phải được giao trực tiếp cho đương sự hoặc thông qua cơ quan, tổ chức khác giao trực tiếp cho đương sự hoặc giao theo đường bưu điện phải bằng thư bảo đảm. Nếu giao qua người thân thích của đương sự thì người đó phải cam kết sẽ giao ngay cho đương sự… Pháp luật chưa có quy định thủ tục tống đạt thông qua việc dụng điện thoại, mail, zalo, facebook… trong vấn đề thông báo thụ lý, triệu tập đương sự, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử.
Hai là, Tòa án trực tuyến với thủ tục xét xử, giải quyết trực tuyến.
Đổi mới thủ tục hành chính, thủ tục giải quyết các vụ án cho phù hợp với xu thế của công nghệ, của thế giới là đòi hỏi và yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, khi mà số lượng các vụ án ngày một tăng, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại điện tử và Internet. Mặc dù, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 hướng dẫn về việc gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương thức điện tử. Tuy nhiên, Nghị quyết trên mới chỉ dừng lại ở thủ tục ban đầu của vụ kiện dân sự, các thủ tục tố tụng khác vẫn phải thực hiện theo thủ tục thông thường; việc triển khai thực hiện nghị quyết vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập do cơ sở vật chất của hệ thống Tòa án, trình độ công nghệ của thẩm phán, cán bộ Tòa án chưa đáp ứng. Hiện nay, tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc và nhiều nước khác đã cho thành lập Tòa án trực tuyến để tiếp nhận hồ sơ và xét xử trực tuyến, đây là một Tòa án đặc biệt dành riêng cho thương mại điện tử và các vụ án liên quan đến Internet. Điển hình như Tòa án ở Trung Quốc sẽ thụ lý các hồ sơ điện tử và việc xử lý sẽ được phát qua live tream (phát trực tiếp). Theo trang mạng (website) của Tòa án, một vụ kiện có thể chỉ mất 05 phút để giải quyết và vì thế các trường hợp kiện sẽ mất ít thời gian và tiền bạc. Việc thành lập Tòa án xét xử trực tuyến hoặc xây dựng thủ tục xét xử trực tuyến ở Việt Nam có thể áp dụng ở một số lĩnh vực nhất định và thực hiện thí điểm ở một số Tòa án với cách thức và thủ tục đơn giản so với thủ tục thông thường để bảo đảm tính nhanh chóng, chính xác. Sau đó, áp dụng trên cả nước với nhiều loại quan hệ tranh chấp.
Trong thời gian hiện nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng tình hình dịch bệnh Covid – 19 diễn biến phức tạp, để bảo đảm việc giãn cách, phòng chống dịch bệnh thì việc nghiên cứu và quy định xét xử trực tuyến càng có ý nghĩa cấp thiết.
Như vậy, bên cạnh những quy định phù hợp, pháp luật tố tụng dân sự còn nhiều bất cập, hạn chế từ xác định vị trí, vai trò của những người tiến hành tố tụng, đến việc vận hành trình tự, thủ tục tố tụng; cơ chế bảo đảm cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử… Những hạn chế này không chỉ thể hiện trong BLTTDS năm 2015 mà còn thể hiện trong cả các quy định pháp luật liên quan. Do đó, cần thiết phải có những nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra./.
Trả lời