Mục lục
Chuyển giao hợp đồng trong pháp luật dân sự
Tác giả: ThS. Trần Thị Hương*
TÓM TẮT
Bài viết nhận diện khái niệm và các đặc điểm chuyển giao hợp đồng, phân tích bản chất pháp lý của giao dịch chuyển giao hợp đồng, mô tả vai trò của chuyển giao hợp đồng trong giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại. Các nội dung liên quan về điều kiện để chuyển giao hợp đồng, đối tượng và phạm vi chuyển giao, thủ tục và hậu quả pháp lý của giao dịch chuyển giao hợp đồng chiếm vị trí trung tâm trong bài viết này. Trên cơ sở các nhận định, kết luận từ việc việc nghiên cứu, khảo sát nhu cầu chuyển giao hợp đồng trong thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi ý ban đầu cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về chuyển giao hợp đồng.
Xem thêm bài viết về “Hợp đồng”
- Hệ quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng trong pháp luật các nước và kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trường Sơn
- Bình luận về các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015 – TS. Nguyễn Thùy Trang
- Áp dụng Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại trong quan hệ hợp đồng – PGS.TS. Đoàn Đức Lương
- Ba vấn đề về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005: Kinh nghiệm nhìn từ Nhật Bản – TS. Nguyễn Quốc Vinh
- Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng – Nhìn từ góc độ so sánh – ThS. Lê Thị Diễm Phương
Trong giao lưu dân sự, thương mại luôn tồn tại những nhu cầu chuyển giao hợp đồng đã ký kết. Đó là khi một bên tham gia quan hệ hợp đồng chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có hiệu lực cho người thứ ba.
Trong thực tiễn, chuyển giao hợp đồng là phương thức thường được lựa chọn khi một bên trong quan hệ hợp đồng muốn rút ra khỏi quan hệ hợp đồng mà không cần áp dụng cơ chế chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng luôn hướng đến mục đích thỏa mãn nhu cầu lợi ích vật chất của mình. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp các bên tham gia quan hệ hợp đồng đều đạt được mục đích đề ra của họ khi thực hiện hợp đồng. Vậy nên, chủ thể đó tìm kiếm các cơ chế để chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng đó cho một chủ thể khác.
Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS) có quy định về vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu[1] hoặc chuyển giao nghĩa vụ[2] một cách đơn lẻ, độc lập mà không đề cập đến quan hệ chuyển giao tổng thể quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã/đang còn hiệu lực.
Phần lớn các hợp đồng thường gặp trong đời sống thực tiễn là hợp đồng song vụ, mỗi bên trong quan hệ hợp đồng trong quan hệ với bên còn lại đều có quyền và nghĩa vụ của mình. Vì thế việc thay đổi chủ thể trong quan hệ hợp đồng hoàn toàn có thể xảy ra dưới dạng một bên trong quan hệ hợp đồng chuyển giao cả quyền và nghĩa vụ của mình sang cho người thứ ba. Việc chuyển giao này không trái các quy định của pháp luật. Những giao dịch nêu trên vẫn được tiến hành trong đời sống thực tiễn. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa dành sự quan tâm đúng mức đến vấn đề chuyển giao hợp đồng.Thật vậy, BLDS chỉ quy định vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ dân sự. Các văn bản pháp luật chuyên ngành về kinh doanh thương mại có một số quy định về chuyển giao hợp đồng, nhưng những quy định này còn tản mạn, rải rác, không tập trung với một phạm vi áp dụng giới hạn. Điều này cho thấy sự thiếu vắng các nguyên tắc chung làm nền tảng và định hướng để các quy định về chuyển giao hợp đồng trong luật chuyên ngành phát triển. Tình trạng trên ảnh hưởng tính hiệu quả và khả năng điều chỉnh của pháp luật đối với quá trình đàm phán, ký kết các thỏa thuận chuyển giao hợp đồng cũng như làm giảm hiệu quả trong công tác giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả xem xét những nội dung liên quan bản chất pháp lý của quan hệ chuyển giao hợp đồng, điều kiện và đối tượng chuyển giao, tính chất và phạm vi của quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được chuyển giao.
1. Bản chất pháp lý của chuyển giao hợp đồng
Xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng là thỏa thuận của các bên trên nền tảng tự nguyện, tự do ý chí, nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ cho chính họ. Do vậy, khi không thể hoặc không có nhu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng để tự mình tiếp nhận các quyền và thực hiện các nghĩa vụ đó, họ có thể chuyển giao quan hệ hợp đồng mà mình đã ký kết sang cho người thứ ba.Trong trường hợp này, xét dưới góc độ đối tượng chuyển giao (nội dung chuyển giao) thì việc chuyển giao hợp đồng này đồng nghĩa với việc chuyển giao một tập hợp các quyền và nghĩa vụ của một bên trong quan hệ hợp đồng sang cho người thứ ba.
Tuy nhiên, nếu xem xét dưới góc độ chủ thể thì chuyển giao hợp đồng đồng nhất với thay thế chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng, tức một chủ thể mới (bên nhận chuyển nhượng hợp đồng) thế chỗ của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng ban đầu (bên chuyển nhượng hợp đồng) đã rút khỏi quan hệ hợp đồng.
Về biểu hiện bên ngoài, sự thay đổi chủ thể trong quan hệ chuyển giao hợp đồng gồm việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ, nếu đó là hợp đồng song vụ. Kết luận rằngchuyển giao hợp đồng là sự tổng hợp của việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ là hệ quả của việc suy đoán nói trên. Vậy nên, khi tiến hành chuyển giao hợp đồng chỉ cần áp dụng tổng hợp những quy định về chuyển giao quyền yêu cầu và những quy định về chuyển giao nghĩa vụ trong BLDS là đủ. BLDS không nhất thiết phải quy định về chuyển giao hợp đồng.
Tuy nhiên, theo TS Ngô Quốc Chiến thì “Hợp đồng không chỉ đơn thuần là tập hợp các quyền và nghĩa vụ mà còn là mối quan hệ giữa hai bên giao kết và đi liền với nó là phẩm chất cá nhân cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng và các quyền phản kháng đơn phương”[3] .
Mặt khác, tập hợp các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng không là phép cộng đơn giản của việc chuyển giao quyền và chuyển giao nghĩa vụ. Thật vậy, nếu trong chuyển giao quyền yêu cầu thì đối tượng chuyển giao (quyền yêu cầu) phải hiện hữu và xác định được phạm vi, tính chất, giá trị của quyền yêu cầu, Trong khi đó, chuyển giao quyền trong quan hệ chuyển giao hợp đồng thì đối tượng chuyển giao (quyền) có thể tồn tại, hiện hữu tại thời điểm chuyển giao nhưng cũng có thể chưa tồn tại. Chủ thể mang quyền chỉ có quyền thực sự khi và chỉ khi họ thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Từ những nguyên nhân trên có thể kết luận rằng, nếu chỉ sử dụng những quy định về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ trong BLDS hiện hành là không thể điều chỉnh quan hệ chuyển giao hợp đồng một cách toàn diện và hiệu quả.
Chuyển giao hợp đồng là một giao dịch pháp lý giữa ba bên nhằm chuyển giao quyền và nghĩa vụ được xác lập theo hợp đồng đã ký kết trước đó.
Các bên tham gia quan hệ chuyển giao hợp đồng gồm có:
- i) bên chuyển giao quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà họ là chủ thể;
- ii) bên nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ từ chủ thể của quan hệ hợp đồng;
iii) bên còn lại trong quan hệ hợp đồng được chuyển giao (không có sự đồng ý của chủ thể này thỉ việc chuyển giao hợp đồng có thể không diễn ra).
Giao dịch về chuyển giao hợp đồng dẫn đến kết quả là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Giao dịch này được thực hiện thông qua hành vi của một bên là chủ thể của quan hệ hợp đồng đã giao kết chuyển giao quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng sang cho bên thứ ba. Bên thứ ba thay thế tư cách chủ thể của bên chuyển giao hợp đồng. Bên thứ ba này cam kết nhận về mình việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng cũng như thực hiện các quyền yêu cầu thuộc về bên chuyển giao.Giao dịch này chỉ có giá trị pháp lý khi nhận được sự đồng ý về việc chuyển giao từ phía bên còn lại của quan hệ hợp đồng.
Giao dịch về chuyển giao hợp đồng được thực hiện trên cơ sở chuyển tiếp các quyền và nghĩa vụ được xác lập theo hợp đồng từ chủ thể của quan hệ hợp đồng sang cho người khác. Chính sự “chuyển tiếp” này cấu thành nên bản chất của chuyển giao hợp đồng.
Sự kiện chuyển giao hợp đồng cần được nhìn nhận trong sự phân tách với giao dịch là cơ sở hình thành nên quan hệ hợp đồng được chuyển giao. Thật vậy, trong quá trình chuyển giao hợp đồng luôn tồn tại hai mối quan hệ khác biệt:
Thứ nhất, quan hệ hợp đồng mà từ đó hình thành nên quyền và nghĩa vụ được chuyển giao (có thể là hợp đồng mua bán, bảo hiểm, tín dụng, dịch vụ….)
Thứ hai, thỏa thuận chuyển giao hợp đồng được xác lập giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao.
Trong quan hệ thứ hai, xét về tính chất giao dịch có thể là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù. Thỏa thuận về giá cả (nếu có) cho sự chuyển giao này do bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao thỏa thuận.
Mối liên hệ pháp lý giữa hai giao dịch này thể hiện ở chỗ: Nếu giao dịch chuyển giao hợp đồng vô hiệu không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng được chuyển giao. Nhưng sự vô hiệu của hợp đồng chuyển giao sẽ dẫn đến sự vô hiệu của giao dịch chuyển giao hợp đồng.
2. Điều kiện của việc chuyển giao hợp đồng
Hai bên trong quan hệ chuyển giao gồm bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao đều mong muốn việc chuyển giao thành công để các lợi ích kỳ vọng của họ khi tham gia giao dịch chuyển giao được đáp ứng. Sự thành công của việc chuyển giao hợp đồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng dưới góc độ pháp luật thì việc chuyển giao hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý khi việc chuyển giao này đáp ứng được các quy định của pháp luật.Các điều kiện để việc chuyển giao hợp đồng có thể được công nhận có giá trị pháp lý có thể được xác định như sau: (i) hợp đồng được chuyển giao là hợp đồng có hiệu lực; (ii) việc chuyển giao được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật; (iii) các bên tham gia việc chuyển giao hợp đồng phải đáp ứng được các quy định của pháp luật về tư cách chủ thể, ý chí tự nguyện…
Điều kiện thứ nhất: hợp đồng được chuyển giao phải là một hợp đồng đã giao kết và có hiệu lực. Một hợp đồng được giao kết và một hợp đồng có hiệu lực là hai vấn đề khác biệt. Thật vậy, hợp đồng giao kết chỉ có hiệu lực khi nó đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự được quy định trong BLDS 2005[4]. Quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể của quan hệ hợp đồng chỉ được xác lập khi hợp đồng có giá trị pháp lý. Các bên chỉ có thể chuyển giao những quyền và nghĩa vụ đã được xác lập. Chính vì vậy, một trong các điều kiện cần phải đáp ứng đểchuyển giao hợp đồng là hợp đồng được chuyển giao phải có hiệu lực.
Điều kiện thứ hai: việc chuyển giao hợp đồng được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được chuyển giao có thể được chuyển giao cho người khác dựa trên thỏa thuận giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao với sự đồng ý của bên chủ thể còn lại trong quan hệ hợp đồng. Việc chuyển giao được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận thì hợp đồng chuyển giao giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao phải được tiến hành trên nền tảng tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực thì việc chuyển giao mới có giá trị pháp lý.
Chuyển giao hợp đồng theo quy định của pháp luật được thực hiện trong các trường hợp:
Kế thừa toàn diện quyền và nghĩa vụ (kế thừa toàn diện quyền và nghĩa vụ xảy ra khi pháp nhân là một bên trong quan hệ hợp đồng được tổ chức lại;
Theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi việc chuyển giao này được pháp luật quy định.
Khi tiến hành chuyển giao hợp đồng trên cơ sở quy định của pháp luật không đòi hỏi tuân thủ các quy định về hình thức của việc chuyển giao vì việc chuyển giao hợp đồng trong trường hợp này không được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Chuyển giao hợp đồng theo quy định của pháp luật không đòi hỏi phải có sự đồng ý của bên chủ thể còn lại trong quan hệ hợp đồng.
Điều kiện thứ ba: các bên tham gia việc chuyển giao hợp đồng phải đáp ứng được các quy định của pháp luật về tư cách chủ thể, ý chí tự nguyện…
Chuyển giao hợp đồng theo thỏa thuận là giao dịch dân sự ba bên. Giao dịch này xảy ra trên cơ sở thỏa thuận giữa bên chuyển giao, bên nhận chuyển giao và nó chỉ hoàn thành với sự đồng ý của bên chủ thể còn lại trong quan hệ hợp đồng về việc chuyển giao này.
Để việc chuyển giao hợp đồng có thể được tiến hành thì giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao phải đạt được thỏa thuận chuyển giao. Bên chuyển giao đồng ý chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng mà họ là chủ thể, bên nhận chuyển giao đồng ý nhận các quyền và nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng ban đầu chuyển lại với các điều kiện mà các bên thống nhất. Thông báo đơn phương của một bên chủ thể hợp đồng về việc họ chuyển quyền và nghĩa vụ của mình sang cho người khác là không đủ, cần phải có việc thể hiện ý chí tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ từ bên chuyển giao của bên nhận chuyển giao hợp đồng.
Ngoài ra,theo quy định của BLDS thì việc chuyển giao quyền yêu cầu đòi hỏi:
– Người chuyển giao quyền yêu cầu phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu;
-Người chuyển giao quyền yêu cầu phải cung cấp thông tin cần thiết, chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền[5].
Việc pháp luật quy định bên chuyển giao quyền phải thông báo cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu là cần thiết để bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình kịp thời và thuận lợi. Tuy nhiên thời điểm thông báo của bên có quyền ban đầu cho bên có nghĩa vụ không đồng nhất với thời điểm chuyển giao quyền yêu cầu. Việc thông báo được thực hiện trên cơ sở quyền yêu cầu đã chuyển giao. Việc thông báo không được xem như điều kiện cần thiết cho việc chuyển giao quyền yêu cầu có hiệu lực. Việc không thông báo của bên chuyển quyền tuy không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của việc chuyển giao quyền yêu cầu nhưng có thể dẫn đến hậu quả là bên có nghĩa vụ có quyền từ chối việc thực hiện nghĩa vụ cho bên thế quyền.
Bên chuyển giao quyền yêu cầu có nghĩa vụ chuyển cho bên thế quyền những giấy tờ chứng minh quyền yêu cầu và thông báo những thông tin có ý nghĩa cho việc thực hiện quyền yêu cầu. Việc bên chuyển quyền yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ nêu trên không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của việc chuyển giao quyền yêu cầu. Điều này được giải thích bởi lý do quyền yêu cầu được chuyển sang cho bên thế quyền từ thời điểm giao dịch về việc chuyển quyền này được thể hiện dưới hình thức phù hợp với quy định của pháp luật. Việc chuyển giao giấy tờ chứng minh về sự tồn tại của quyền yêu cầu và không thể xem là điều kiện có hiệu lực của giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu. Tuy nhiên pháp luật xác định trách nhiệm của người chuyển giao quyền yêu cầu vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển giấy tờ liên quan cho bên thế quyền dưới dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý[6].
Các quy định này được nhà lập pháp đặt ra trên cơ sở suy đoán việc thực hiện nghĩa vụ đúng, đủ và kịp thời của bên có nghĩa vụ không bị phụ thuộc bởi việc họ thực hiện nghĩa vụ đó cho ai. Việc người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình cho bên có quyền ban đầu hay bên thế quyền thì cũng không làm cho lợi ích của họ bị ảnh hưởng theo hướng suy giảm hoặc gây nên điều gì bất lợi cho họ. Tuy nhiên việc chuyển giao nghĩa vụ trong mọi trường hợp chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của bên có quyền vì nhân thân của bên có nghĩa vụ ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nghĩa vụ đúng và đủ của bên có nghĩa vụ với bên có quyền. Chính vì vậy việc thay đổi chủ thể là bên có nghĩa vụ chỉ có thể thực hiện khi có sự đồng ý của bên có quyền vì điều này trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của họ.
Bên cạnh việc các chủ thể của giao dịch dân sự ba bên nêu trên đáp ứng được yếu tố tự nguyện trong việc chuyển giao hợp đồng thì vấn đề về tư cách của thể của bên nhận chuyển giao hợp đồng là vấn đề cần được quan tâm.
Một quan hệ hợp đồng có thể xảy ra việc thay đổi chủ thể trong khi phần nội dung quan trọng của nó là quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể vẫn giữ nguyên không thay đổi. Nếu chủ thể trong hợp đồng ban đầu là bên chuyển giao hợp đồng chỉ có thể tham gia quan hệ hợp đồng khi đáp ứng được yêu cầu về tư cách chủ thể đặc biệt có nghĩa là đối với loại hợp đồng này đòi hỏi tính đặc trưng của năng lực chủ thể từ phía bên chuyển giao hợp đồng thì bên nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ hợp đồng cũng phải đáp ứng được yêu cầu có tư cách chủ thể đặc biệt.
Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ pháp luật về nghĩa vụ đều đòi hỏi các chủ thể phải có tư cách chủ thể đặc biệt. Việc xem xét tư cách chủ thể đặc biệt của bên nhận chuyển giao hợp đồng cần xuất phát từ góc độ bản chất của quan hệ nghĩa vụ, có nghĩa là xuất phát từ những điều kiện nào của quan hệ nghĩa vụ đòi hỏi cần đáp ứng yêu cầu về tư cách chủ thể đặc biệt.
Tồn tại những loại hợp đồng mà ở đó bên nhận chuyển giao đòi hỏi phải có tư cách chủ thể đặc biệt[7].
3. Đối tượng và phạm vi quyền và nghĩa vụ được chuyển giao
Quyền và nghĩa vụ là đối tượng của sự chuyển giao phải tồn tại, tức là hợp đồng đã và đang có hiệu lực. Bên cạnh đó, có thể chuyển giao cả những quyền và nghĩa vụ sẽ phát sinh hoặc có thể phát sinh trong tương lai. Với những quyền và nghĩa vụ sẽ phát sinh hoặc có thể phát sinh để được coi là đối tượng của sự chuyển giao cần phải đáp ứng được điều kiện là khi phát sinh nó phải ở trạng thái có thể xác định được.
Quyền và nghĩa vụ chuyển giao liệu có thể tồn tại ở trạng thái chưa xác định cụ thể và chưa hoàn thành trong số đó kể cả các quyền chưa đến thời hạn yêu cầu? Việc chuyển giao những quyền hoàn thành hoặc chưa hoàn thành đều có thể thực hiện được và người nhận chuyển giao sẽ chỉ có quyền này trong phạm vi mà bên có quyền trước đó (bên chuyển giao) có mà thôi.
Những quyền và nghĩa vụ không xác định được, có thể là đối tượng chuyển giao? Nếu quyền và nghĩa vụ không xác định trở thành đối tượng của việc chuyển giao thì hoàn toàn có cơ sở để khẳng định là hợp đồng chuyển giao đã vi phạm điều kiện về đối tượng hợp đồng[8].
Khoản 1 Điều 309 BLDS 2005 duy trì những quy định ngoại lệ của những quyền và nghĩa vụ không được chuyển giao, cụ thể là bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thoả thuận, trừ những trường hợp sau đây:
Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín;
Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền yêu cầu;
Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ[9].
Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển giao chuyển sang cho bên nhận chuyển giao được giới hạn trong phạm vi nhất định và theo những điều kiện mà các quyền và nghĩa vụ này tồn tại vào thời điểm chuyển giao. Trong đó bao gồm những quyền yêu cầu và những quyền xuất phát từ quyền yêu cầu như các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, quyền được trả lãi quá hạn và những quyền khác liên quan đến quyền yêu cầu.Cũng tương tự như vậy với nghĩa vụ được chuyển giao, bên chuyển giao sẽ chuyển sang cho bên nhận chuyển giao các nghĩa vụ chính theo hợp đồng, chẳng hạn như nghĩa vụ trả tiền đúng số lượng và thời hạn và cả các nghĩa vụ phát sinh như nghĩa vụ trả lãi quá hạn hoặc các nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại… Việc chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì về nguyên tắc biện pháp bảo đảm đó chấm dứt trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Sự phát triển mạnh mẽ của vòng lưu chuyển quan hệ tài sản trong đời sống kinh tế thương mại làm gia tăng các trường hợp chuyển giao hợp đồng. Xuất hiện các nhu cầu khác nhau về việc chuyển giao hợp đồng liên quan đến phạm vi quyền và nghĩa vụ được chuyển giao. Chủ thể của quan hệ hợp đồng có thể muốn thực hiện việc chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng hoặc trong một số trường hợp họ chỉ muốn chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ của mình.
Việc chuyển giao toàn bộ hay một phần quyền và nghĩa vụ xét dưới góc độ bản chất của quan hệ pháp luật dân sự vốn được xây dựng trên nền tảng tự do ý chí, tự nguyện, tự thỏa thuận thì không có gì là mâu thuẫn. Tuy nhiên cần lưu ý một vấn đề là quan hệ nghĩa vụ được thiết lập từ quan hệ hợp đồng là quan hệ nghĩa vụ chia được hay không chia được. Từ đó tiến hành giải quyết vấn đề khả năngcủa bên có nghĩa vụ có thể thực hiện nghĩa vụtheo phần cho một số người thuộc về bên có quyền yêu cầu. Nếu việc chuyển giao quyền yêu cầu được thực hiện toàn bộ hay một phần phụ thuộc vào việc quan hệ nghĩa vụ có thể phân chia hay không thì cũng tương tự như vậy việc chuyển giao nghĩa vụ được thực hiện một phần hay toàn bộ xuất phát từ việc quan hệ nghĩa vụ hình thành từ hợp đồng được chuyển giao có thể phân chia được hay không.
Hiện nay với sự phát triển không ngừng của các quan hệ tiền – hàng trong đời sống dân sự, thương mại đã hình thành nên những quan hệ đòi hỏi luật pháp phải đặt ra các hành lang pháp lý phù hợp để điều chỉnh. Việc chuyển giao hợp đồng là một vấn đề không phải được điều chỉnh bởi quy định của mọi BLDS các quốc gia trên thế giới. Thực tiễn lập pháp các nước cho thấy, pháp luật một số quốc gia mặc dù không quy định về việc chuyển giao hợp đồng nhưng để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra trong các hoạt động chuyển giao hợp đồng, nên họ đã chú ý đến vấn đề này[10].
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, nên chăng, BLDS Việt Nam dành những quy định điều chỉnh việc chuyển giao hợp đồng dưới góc độ các nguyên tắc chung.
Chế định về chuyển giao hợp đồng nên áp dụng một cách tổng hợp các nguyên tắc của việc chuyển giao quyền yêu cầu và việc chuyển giao nghĩa vụ. Bên cạnh đó phải bổ sung một số quy định đặc thù của quan hệ chuyển giao hợp đồng.
Về phạm vi chuyển giao hợp đồng: Các luật chuyên ngành cần có những quy định rõ ràng và cụ thể về phạm vi quyền và nghĩa vụ được chuyển giao trong từng loại hợp đồng được chuyển giao. Khởi nguồn từ nguyên tắc tự do ý chí, tự do thỏa thuận trong quan hệ hợp đồng thì việc chuyển giao hợp đồng hoàn toàn có thể được chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ từ chủ thể quan hệ hợp đồng sang cho người thứ ba. Tuy nhiên pháp luật cũng cần quy định là việc chuyển giao không chỉ được thực hiện với các quyền yêu cầu chính mà cả các quyền lợi phụ thuộc hoặc có liên quan đến quyền yêu cầu chính. Ví dụ như các biện pháp bảo đảm và lãi suất…Tương tự như vậy với việc chuyển giao nghĩa vụ; chuyển giao không chỉ nghĩa vụ chính mà cả các nghĩa vụ phát sinh từ nghĩa vụ chính. Bên cạnh việc chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ thì pháp luật cần công nhận việc chuyển giao chỉ một phần quyền hoặc nghĩa vụ của chủ thể sang cho người khác. Việc chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ có thể thực hiện nhưng với điều kiện là quan hệ nghĩa vụ có thể phân chia và việc chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ này không được làm tổn hại đến quyền và lợi ích của bên có nghĩa vụ.
Khi bổ sung các quy định về chuyển giao hợp đồng, pháp luật cần điều chỉnh quan hệ giữa bên chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng với bên nhận chuyển giao các quyền và nghĩa vụ này. Xác định trách nhiệm cho các hành vi vi phạm của bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao (đặc biệt là trách nhiệm bên chuyển giao khi họ thực hiện việc chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ của một hợp đồng đồng thời liên tiếp cho nhiều người khác nhau). Ngoài ra pháp luật phải xem xét trật tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên./.
Xem thêm bài viết về “Chuyển giao hợp đồng”
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Từ Điều 309 đến Điều 314 BLDS.
[2] Từ Điều 315 đến Điều 317 BLDS.
[3] Ngô Quốc Chiến, “BLDS cần bổ sung quy định về chuyển giao hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử. http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2013/06/06/bo-luat-dn-su-can-bo-sung-quy-dinh-ve-chuyen-giao-hop-dong/.
[4] Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định trong Điều 122 BLDS 2005.
[5] Khoản 2 Điều 309 và khoản 1 Điều 311, 2 Điều 309 BLDS 2005.
[6] Khoản 1 Điều 315 BLDS 2005.
[7] Ví dụ: khoản 2 Điều 31 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 quy định về đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người, tức bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho những người mà người mua có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Do vậy, trong trường hợp bên mua bảo hiểm chuyển hợp đồng bảo hiểm cho bên nhận chuyển giao thì bên nhận chuyển giao cũng phải đáp ứng các quy định tại khoản 2 Điều 31.
[8] M.I.Braginski, V.V.Vitrianski, Luật hợp đồng, M, 2011, tr. 474.
[9] Khoản 1 Đ 315 BLDS 2005.
[10] Trong các Bản Dự thảo sửa đổi BLDS của họ đã đặt ra chế định riêng để điều chỉnh việc chuyển giao hợp đồng. xem: Alexanđra Bưchkop, Tự do hợp đồng trong Dự thảo BLDS Nga.
- Tác giả: ThS. Trần Thị Hương*
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06/2013 (79)/2013 – 2013, Trang 37-43
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời