Mục lục
Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Hoài Trâm – ThS. Xa Kiều Oanh
TÓM TẮT
Pháp luật tố tụng dân sự quy định phải thay đổi người tiến hành tố tụng trong trường hợp sự tham gia tố tụng của họ có thể dẫn đến không khách quan, vô tư. Trong bài viết, chúng tôi trình bày một số trường hợp Tòa án áp dụng căn cứ để thay đổi người tiến hành tố tụng nhưng còn bất cập ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân.
Xem thêm về “Bộ luật Tố tụng dân sự 2015“:
- Hạn chế của điều kiện về quyền tài phán của tòa án nước ngoài trong việc công nhận, thi hành bản án dân sự, thương mại của tòa án nước ngoài trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 – ThS. Dư Ngọc Bích
- Một số vướng mắc, bất cập về thủ tục tố tụng được áp dụng trong trường hợp kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 – ThS. Nguyễn Thị Anh Thư
1. Tổng quan về người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng (NTHTT) trong tố tụng dân sự là những người đại diện cho các cơ quan tiến hành tố tụng để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật tố tụng dân sự quy định. Hoạt động của những NTHTT có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, bảo đảm quá trình giải quyết vụ việc dân sự diễn ra một cách khách quan và đúng quy định của pháp luật. Theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng, nếu có căn cứ cho thấy NTHTT không bảo đảm được sự vô tư, khách quan thì NTHTT phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi có yêu cầu thay đổi hợp pháp từ những người có quyền đề nghị.[1]
Thay đổi NTHTT là việc đưa một NTHTT khác “thay thế” NTHTT đang thực hiện nhiệm vụ khi có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. NTHTT không bị thay đổi một cách ngẫu nhiên mà họ chỉ bị thay đổi khi có căn cứ cụ thể, rõ ràng. Căn cứ thay đổi NTHTT là cơ sở để NTHTT từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, NTHTT phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi có căn cứ quy định tại các Điều 52, Điều 53, Điều 54, Điều 60.
Thông qua thực tiễn, chúng tôi nhận thấy, đa phần Tòa án áp dụng chính xác các căn cứ thay đổi NTHTT. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp Tòa án áp dụng căn cứ để thay đổi NTHTT chưa được hợp lý. Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa được hướng dẫn cụ thể, từ đó gây khó khăn trong quá trình áp dụng BLTTDS về căn cứ thay đổi NTHTT.
2. Quy định về thay đổi người tiến hành tố tụng trong BLTTDS 2015
Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 BLTTDS năm 2015, NTHTT phải từ chối hoặc bị thay đổi khi họ đồng thời là người thân thích của đương sự. Trên thực tế, nếu NTHTT là người thân thích của người đại diện của đương sự và họ cùng tham gia tố tụng trong một phiên tòa/ phiên họp giải quyết vụ việc dân sự thì có thể sẽ ảnh hưởng đến sự khách quan, công bằng của NTHTT. Sở dĩ như vậy vì NTHTT có thể lạm dụng quyền hạn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thân thích của mình. Do đó, BLTTDS năm 2015 nên quy định cụ thể việc thay đổi NTHTT khi họ là người thân thích với người đại diện của đương sự
Trong trường hợp này, có thể dựa vào căn cứ tại khoản 3 của Điều 52 BLTTDS năm 2015 “có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư khi làm nhiệm vụ” để NTHTT phải từ chối hoặc yêu cầu thay đổi họ hay không? Bởi vì, việc áp dụng khoản 3 Điều 52 BLTTDS năm 2015 là chưa thực sự phù hợp mà cần phải bổ sung căn cứ thay đổi NTHTT khi họ là người thân thích của người đại diện của đương sự vào khoản 1 Điều 52 BLTTDS năm 2015. Theo chúng tôi, căn cứ NTHTT là người thân thích của người đại diện mang bản chất hoàn toàn khác với việc thừa nhận căn cứ thay đổi NTHTT ở khoản 3 Điều 52 BLTTDS năm 2015. Nếu căn cứ này quy định tại khoản 3 Điều 52 BLTTDS năm 2015 thì quyền yêu cầu thay đổi NTHTT của người tham gia tố tụng không được “mặc nhiên” mà phải có chứng cứ, chứng minh NTHTT không vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, sẽ khác đi khi trường hợp đó được quy định tại khoản 1 Điều 52 BLTTDS năm 2015 thì quyền đề nghị thay đổi NTHTT sẽ là quyền “mặc nhiên”.
Theo quy định của pháp luật tố tụng các nước như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Liên bang Nga căn cứ thay đổi NTHTT được quy định như sau:
Điều 45 của Chương 4 BLTTDS Trung Hoa quy định: “Thành viên của Hội đồng xét xử phải từ chối tiến hành tố tụng, các bên tranh chấp có quyền đề nghị (bằng lời nói hoặc bằng văn bản) thay đổi thành viên Hội đồng xét xử nếu họ thuộc một trong các trường hợp sau đây: (1) Là người có mối quan hệ thân thích với đương sự hoặc đại diện của đương sự trong tố tụng”. Tương tự, BLTTDS Liên bang Nga quy định một trong các căn cứ chung để thay đổi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, nhà chuyên môn, giám định viên, người phiên dịch khi họ là ruột thịt hoặc họ hàng thân thích của một trong những người tham gia tố tụng hoặc của một trong những người đại diện của họ.[2]
Như vậy, BLTTDS Trung Hoa và BLTTDS Liên bang Nga đã thừa nhận khi NTHTT là người thân thích của người đại diện cho đương sự thì đó là căn cứ hiển nhiên để thay đổi NTHTT. Việc bổ sung căn cứ NTHTT là người thân thích với người đại diện của các đương sự vào các trường hợp đang được quy định tại khoản 1 Điều 52 BLTTDS năm 2015 là phù hợp với xu hướng pháp luật trên thế giới.
Theo khoản 3 Điều 53 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã tham gia giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì vẫn được tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Với căn cứ thay đổi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân như trên, nếu xảy ra trường hợp họ đã tham gia giải quyết vụ việc ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm và đã ban hành các quyết định như: quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định trưng cầu giám định, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự… thì họ có buộc phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi không?
Thực tiễn giải quyết vụ án dân sự chưa có sự thống nhất đối với vấn đề này. Chúng ta có thể xem ở các ví dụ sau:[3] Tình huống 1: Tòa án nhân dân tỉnh K đã xử phúc thẩm vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà T (nguyên đơn) và bà H (bị đơn). Tại phiên tòa, Bà H và luật sư yêu cầu thay đổi một thành viên Hội đồng xét xử là Thẩm phán A bởi Thẩm phán này trước đây từng giải quyết vụ án trong giai đoạn sơ thẩm.
Bà H trình bày, trước đây vụ án từng được Tòa án nhân dân tỉnh K thụ lý theo thủ tục sơ thẩm và Thẩm phán A được phân công giải quyết. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán A đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cấm xuất cảnh đối với bà H. Sau đó, Tòa án nhân dân tỉnh K xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa cấp huyện nên đã hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh K thụ lý, giải quyết sơ thẩm.
Sau khi Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh K xét xử sơ thẩm, bà H kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán A là một trong những thành viên của Hội đồng xét xử. Bà H và Luật sư của mình yêu cầu thay đổi Thẩm phán A vì cho rằng người này có thể sẽ không vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ. Căn cứ mà bà H và luật sư yêu cầu là quy định tại khoản 3 Điều 53 BLTTDS năm 2015.
Tuy nhiên, sau khi hội ý, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã quyết định không chấp nhận yêu cầu của bà H và tiếp tục xét xử.
Trái ngược với cách giải quyết trên, trong một vụ án dân sự tương tự, yêu cầu thay đổi Thẩm phán của đương sự lại được Hội đồng xét xử phúc thẩm ở Tòa án nhân dân tỉnh P chấp nhận.
Tình huống 2: Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh P thụ lý một vụ kiện dân sự và Chánh án đã phân công cho Thẩm phán B giải quyết. Thẩm phán B đã ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Sau đó, Thẩm phán B được điều chuyển công tác về Tòa án nhân dân tỉnh P nên Chánh án Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh P đã giao vụ án cho Thẩm phán khác giải quyết.
Sau phiên xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh P, đương sự kháng cáo. Thẩm phán B được phân công xét xử phúc thẩm vụ án này. Tại phiên tòa, đương sự yêu cầu thay đổi NTHTT. Hội đồng xét xử đã căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 53 BLTTDS năm 2015 tuyên bố hoãn phiên tòa để thực hiện việc thay đổi Thẩm phán.
Căn cứ khoản 3 Điều 53 BLTTDS năm 2015, nếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã tham gia giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng chỉ ra các loại quyết định như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định trưng cầu giám định, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự… thì không thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng, khi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc thì họ cũng có những nhận định chủ quan, định kiến từ trước. Vì vậy, nếu để họ tiếp tục tham gia tố tụng, sự vô tư của họ phần nào sẽ bị ảnh hưởng.
Thiết nghĩ, trường hợp này có thể áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 52 BLTTDS năm 2015 để thay đổi NTHTT. Tuy nhiên, để xác định như thế nào là “có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ” thì cần có cách nhìn nhận thống nhất. Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên đã có nhiều quan điểm khác nhau khi xác định từng trường hợp.
Theo chúng tôi, “có căn cứ cho rằng có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ” cần được giải thích cụ thể trong nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, cần bổ sung vào Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trường hợp thay đổi NTHTT như sau: “khi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã tham gia giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và ra các loại quyết định như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định trưng cầu giám định, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự thì cũng được coi là có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ”.
Trên thực tế, ngoài những căn cứ từ chối, thay đổi NTHTT được pháp luật quy định thì cũng phát sinh không ít các căn cứ khác và việc thay đổi NTHTT trong những trường hợp như vậy là cần thiết nhằm bảo đảm cho vụ án được giải quyết khách quan, đúng pháp luật cũng như bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do những căn cứ này chưa được quy định cụ thể nên đã dẫn đến tình trạng thay đổi NTHTT không có căn cứ. Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi xin viện dẫn một số ví dụ sau:
Ví dụ 1: Trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hụi” giữa nguyên đơn là bà A, bị đơn là bà B và người có liên quan là bà C, bà A có làm đơn xin thay đổi Thẩm phán Nguyễn Thị Thu H với các lý do sau: (i) tại phiên hòa giải, các bên đương sự có mặt đầy đủ, Thẩm phán H không xem xét những giấy tờ chứng minh việc bà C bảo lãnh cho bà B trả tiền cho bà A; (ii) trong quá trình hòa giải, Thẩm phán H không tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, mà có những lời lẽ đe dọa, bắt buộc nguyên đơn phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình; (iii) qua hai lần hòa giải, Thẩm phán H chỉ ghi ý kiến của từng đương sự, không hướng dẫn cho các đương sự tính toán về các khoản nợ, hụi để xác định nghĩa vụ, quyền lợi của các bên.
Xét đơn yêu cầu thay đổi thẩm phán của bà A là có căn cứ, Chánh án Tòa án nhân dân Quận G đã chấp nhận đơn yêu cầu thay đổi NTHTT và ra quyết định thay đổi Thẩm phán H.
Ví dụ 2: Bà H khởi kiện tại Tòa án quận Y đòi khoản nợ 1,2 tỉ đồng mà bên mua nhà còn thiếu. Tại lần triệu tập hợp lệ thứ nhất, bị đơn không có mặt tại phiên hòa giải và có đề nghị không tiến hành hòa giải. Tại lần triệu tập hợp lệ thứ hai, bị đơn vẫn cố tình vắng mặt nhưng Thẩm phán vẫn yêu cầu bà H xem xét lại các tài liệu đã nộp để Thẩm phán thực hiện việc hòa giải dù bị đơn không có mặt. Sau khi phân tích hướng có lợi cho bị đơn, Thẩm phán lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và yêu cầu bà H ký tên. Bà H đã yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân quận Y thay đổi thẩm phán vì cho rằng Thẩm phán phụ trách phiên hòa giải đã cố tình kéo dài thời gian, tạo điều kiện có lợi cho bị đơn. Chánh án Tòa án nhân dân quận Y ra quyết định thay Thẩm phán khác giải quyết vụ án.
Như vậy, việc thay đổi Thẩm phán trong hai trường hợp trên đều không thuộc các căn cứ thay đổi NTHTT tại BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, Tòa án vẫn chấp nhận đơn yêu cầu của đương sự khi nhận thấy có sự không vô tư, khách quan, có thể ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án.
Từ thực tiễn trên, theo chúng tôi, cần bổ sung khoản 4 của Điều 52 BLTTDS 2015 như sau: “4. Họ không thực hiện đúng nhiệm vụ thuộc thẩm quyền trong quá trình tiến hành hoạt động tố tụng”.
Đây là trường hợp thay đổi NTHTT phổ biến nhất hiện nay tại các Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, khi ra các quyết định thay đổi NTHTT thì giữa các Tòa án lại sử dụng các cơ sở pháp lý khác nhau. Cụ thể:
– Tòa án áp dụng Điều 47, Điều 56 BLTTDS năm 2015 để ra quyết định thay đổi NTHTT.[4]
Với cơ sở pháp lý trên, theo chúng tôi, đây chưa phải là căn cứ thuyết phục để ra quyết định thay đổi NTHTT bởi Điều 47 BLTTDS năm 2015 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án Tòa án, cụ thể trong trường hợp này là quyền thay đổi NTHTT trước khi mở phiên tòa tại điểm c khoản 1 Điều 47 BLTTDS năm 2015. Trong khi đó, Điều 56 BLTTDS 2015 quy định việc quyết định thay đổi NTHTT. Cụ thể trong trường hợp này, việc thay đổi NTHTT là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án quyết định. Như vậy, hai điều luật được xem là căn cứ để thay đổi NTHTT với lý do NTHTT bận đi công tác đột xuất chỉ là việc nêu ra thẩm quyền thay đổi thuộc về Chánh án Tòa án trước khi mở phiên tòa mà các quyết định trên chưa chỉ ra rõ cụ thể đó là căn cứ được quy định tại khoản khoản nào để từ đó thay đổi NTHTT. Theo chúng tôi, nếu căn cứ vào Điều 52, Điều 53, Điều 54 BLTTDS năm 2015 thì vẫn chưa có quy định nào phù hợp với trường hợp trên.
– Tòa án áp dụng Điều 52 BLTTDS năm 2015 để ra quyết định thay đổi NTHTT.[5]
Tương tự như trường hợp trên, theo chúng tôi, căn cứ tại Điều 52 BLTTDS 2015 cũng chưa phải là cơ sở thuyết phục để Tòa án ra quyết định thay đổi NTHTT. Điều 52 BLTTDS năm 2015 quy định những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi NTHTT nhưng chúng tôi cho rằng không có khoản nào của điều luật này phù hợp với lý do là NTHTT bận đi công tác để từ đó phải tiến hành thay đổi NTHTT. Quyết định số 29/2017/QĐ-CA ngày 11/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc thay đổi NTHTT với lý do bận công tác đột xuất và áp dụng khoản 2 Điều 52 BLTTDS năm 2015 là không chính xác bởi căn cứ khoản này áp dụng cho trường hợp NTHTT đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó.Như vậy, cùng một lý do là NTHTT bận đi công tác nhưng các Tòa án lại áp dụng căn cứ pháp lý khác nhau để ra quyết định thay đổi NTHTT. Như đã trình bày, các quyết định thay đổi NTHTT trong hai trường hợp nêu trên đều có cùng một điểm chung là chưa phù hợp giữa căn cứ và lý do để thay đổi NTHTT. Theo chúng tôi, đây là các trường hợp chưa được quy định cụ thể để từ đó trở thành căn cứ thay đổi NTHTT. Do đó, các Tòa án áp dụng pháp luật không thống nhất cũng là điều dễ hiểu.
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án Việt Nam hiện nay, nhiều trường hợp Tòa án tiến hành thay đổi NTHTT trước khi mở phiên tòa giải quyết vụ án hay phiên họp giải quyết việc dân sự, chủ yếu là vì lý do khách quan, bất khả kháng như: yêu cầu công tác, bận công tác đột xuất, ốm đau, bệnh tật nên NTHTT không thể tham gia tiến hành tố tụng. Trong khi đó, các căn cứ này chưa được luật hóa. Theo chúng tôi, xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật, các căn cứ trên nên được quy định trong luật. Cụ thể, khoản 5 Điều 52 BLTTDS năm 2015 có thể bổ sung quy định thay đổi NTHTT như sau: “5. Những trường hợp vì lý do khách quan, bất khả kháng”..
CHÚ THÍCH
[1] Điều 52 BLTTDS năm 2015.
[2] Điều 16 đến Điều 21 BLTTDS Liên bang Nga.
[3] Hồng Tú, “Án dân sự: Khi nào thay đổi thẩm phán?”, Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, 2015, http://plo.vn/phap-luat/an-dan-su-khi-nao-thay-doi-tham-phan-550284.html, truy cập ngày 5/5/2018.
[4] Quyết định số 09/2017/QĐ-TĐTT ngày 25/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh B căn cứ vào Điều 47, Điều 56 BLTTDS năm 2015 để thay đổi Hội thẩm nhân dân vì lý do công tác; Quyết định số 01/QĐ-TĐNTHTT ngày 08/11/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh D căn cứ vào Điều 56 BLTTDS năm 2015 để thay đổi Hội thẩm nhân dân vì lý do công tác đột xuất; Quyết định số 101/QĐ-TĐNTHTT ngày 17/12/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh T Điều 47 BLTTDS năm 2015 để thay Thẩm phán và Thư ký vì lý do công tác.
[5] Quyết định số 02/2017/QĐ-TĐTT ngày 19/1/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh P căn cứ vào Điều 52 BLTTDS 2015 để thay đổi người tiến hành tố tụng là Thẩm phán do công tác; Quyết định số 29/2017/QĐ-CA ngày 11/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh P căn cứ vào khoản 2 Điều 52 BLTTDS 2015 để thay đổi thư ký với lý do công tác.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Hoài Trâm – ThS. Xa Kiều Oanh
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(120)/2018 – 2018, Trang 58-62
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời