Mục lục
Bồi thường thiệt hại do giảm sút thu nhập, lợi nhuận khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
TÓM TẮT
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 có liệt kê cụ thể thu nhập, lợi nhuận phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ từ đó đưa ra cách tính mức giảm sút thu nhập, lợi nhuận nhưng việc áp dụng những quy định này còn nhiều bất cập. Từ việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam, so sánh, đối chiếu với pháp luật nước ngoài, nhóm tác giả đưa ra các kiến nghị nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia vào quan hệ sở hữu trí tuệ.
Xem thêm bài viết về “Bồi thường thiệt hại”
- Những điểm mới về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 – ThS. Lê Hà Huy Phát
- Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm – Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài – ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải
- Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo luật định – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Bình luận bản án: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trần Thu Nga
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với những tài sản vô hình, những tài sản được hình thành dựa trên cơ sở hoạt động sáng tạo trí tuệ của con người. Mặt khác, một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ gây tổn hại cho chủ thể quyền đối với đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, mà cũng có thể gây thiệt hại đến lợi ích của người thứ ba – người tiêu dùng trong xã hội và cũng có thể nói là gây tổn hại cho lợi ích của xã hội. Do vậy việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng quan trọng không kém việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản thông thường.
Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng như thế giới đã có những quy định rất cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được thể hiện bằng hai cách[1]. Trong đó cách thứ hai được nhiều chủ thể quyền áp dụng do tính hữu hiệu của nó. Khi các chủ thể quyền áp dụng cách thức thứ hai để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình thì tùy tính chất của hành vi vi phạm, mức độ vi phạm mà sẽ áp dụng biện pháp hành chính, biện pháp dân sự hay biện pháp hình sự. Trong đó biện pháp dân sự mà cụ thể là bồi thường thiệt hại được đánh giá là hướng đến tác động vào tài sản của người có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, khôi phục lại những thiệt hại vật chất và tinh thần cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên để có thể đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại theo nguyên tắc của bồi thường “thiệt hại đến đâu bồi thường đến đó” thì việc xác định thiệt hại trên thực tế là một vấn đề rất quan trọng. Do vậy trong phạm vi bài viết tác giả muốn phân tích cụ thể về cách xác định một loại thiệt hại vật chất khi có hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đó là thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút. Bởi lẽ, vấn đề xác định loại thiệt hại này theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ khi có yêu cầu đòi bồi thường do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn còn rất khó khăn.
1. Quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về thu nhập, lợi nhuận
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005“thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại”. Như vậy có thể nói sự giảm sút về thu nhập, lợi nhuận là một loại thiệt hại về vật chất. Theo đó năm 2005, Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và Thông tư số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT và DL-BKH và CN-BTP ngày 3 tháng 4 năm 2008, Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân đã có quy định chi tiết thế nào là thu nhập, lợi nhuận. Khoản 1 Điều 18 của Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định:
“Thu nhập, lợi nhuận quy định tại điểm a khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Thu nhập, lợi nhuận thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;…”
Thu nhập, lợi nhuận thu được do sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ chính là khoản thu nhập, lợi nhuận dựa trên việc khai thác, sử dụng những đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể như chủ sở hữu sáng chế sản xuất sản phẩm được bảo hộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 124 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và bán sản phẩm đó thu lợi nhuận. Việc chủ sở hữu sáng chế sản xuất những sản phẩm và bán ra thị trường những sản phẩm được bảo hộ và họ là những chủ thể có quyền thì khoản lợi ích vật chất thu được từ hoạt động khai thác trực tiếp tài sản trí tuệ được xem là lợi nhuận. Hay việc tác giả của tác phẩm được hưởng một khoản tiền nhuận bút do hành vi sử dụng tác phẩm của một người khác được tác giả cho phép sử dụng thì khoản tiền nhuận bút chính là thu nhập, lợi nhuận.
Cũng theo khoản 1 Điều 18 của Nghị định trên,
“b) Thu nhập, lợi nhuận thu được do cho thuê đối tượng quyền sở hữu trí tuệ (là bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính).”
Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh hoặc chương trình máy tính thực hiện quyền tài sản quy định tại điểm e khoản 1 Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính và được nhận tiền thù lao, các quyền lợi vật chất khác của tổ chức, cá nhân được thuê tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính đó. Những khoản tiền thù lao hoặc các quyền lợi vật chất khác xuất phát từ hoạt động này đó chính là thu nhập, lợi nhuận. Theo khoản 1 Điều 18 của Nghị định trên,
“c) Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.”
Thu nhập, lợi nhuận thu được do chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là những lợi ích vật chất mà chủ thể quyền thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng cho người khác đối tượng sở hữu trí tuệ có được. Ví dụ: chủ sở hữu sáng chế ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng sáng chế cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng sáng chế và được nhận khoản tiền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo thoả thuận. Đây chính là thu nhập, lợi nhuận.
Như vậy pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam không đưa ra định nghĩa thế nào là thu nhập, lợi nhuận trong hoạt động khai thác, sở hữu các quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên pháp luật đã có sự liệt kê cụ thể những lợi ích vật chất thu được từ việc khai thác các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ để xác định thu nhập, lợi nhuận phát sinh.
2. Quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về tính mức giảm sút của thu nhập, lợi nhuận và việc áp dụng trong thực tiễn
Về mặt lý thuyết, thu nhập, lợi nhuận bị mất là căn cứ quan trọng để tính toán thiệt hại của người bị vi phạm bởi trên thực tế, đây là thiệt hại cơ bản và thường là thiệt hại lớn nhất của nguyên đơn làm chủ sở hữu quyền[2]. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 không đề cập cụ thể đến cách tính mức giảm sút thu nhập, lợi nhuận nhưng trong Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ[3] và Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT và DL-BKH và CN-BTP về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân có quy định chi tiết về vấn đề này. Theo đó có thể khái quát thành những bước như sau để tính thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút:
Bước thứ nhất:
So sánh trực tiếp mức thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm, tương ứng với từng loại thu nhập, lợi nhuận đã được liệt kê;
– Hoặc so sánh sản lượng, số lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thực tế tiêu thụ hoặc cung ứng trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm;
– Hoặc so sánh giá bán thực tế trên thị trường của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm.
Bước thứ hai:
Trên cơ sở những sự so sánh này có thể xác định thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút. Cụ thể:
– Nếu thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại sau khi xảy ra hành vi xâm phạm thấp hơn thu nhập, lợi nhuận trước khi xảy ra hành vi đó, thì khoản chênh lệch đó là thu nhập, lợi nhuận thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút. Trong đó cần chú ý đến các yếu tố khách quan tác động đến sự tăng hoặc giảm thu nhập, lợi nhuận của người bị thiệt hại không liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm xác định thu nhập, lợi nhuận thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút chính xác.
– Đối với trường hợp có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhưng khi xác định thiệt hại tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm so với thời điểm trước khi xảy ra hành vi xâm phạm, thu nhập, lợi nhuận của bên bị xâm phạm tuy không giảm sút, nhưng so với thu nhập, lợi nhuận thực tế đáng lẽ ra họ phải có được nếu không có hành vi xâm phạm vẫn bị giảm đi, thì trường hợp này cũng được coi là thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút.
Trên đây theo quy định của pháp luật là căn cứ vào sự sánh thu nhập, lợi nhuận của bên bị xâm phạm trước và sau khi có hành vi xâm phạm để xác định mức giảm sút thu nhập, lợi nhuận. Tuy nhiên trong trường hợp không thể xác định được cụ thể thiệt hại thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng[4].
Trên thực tế khi xem xét thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút do có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ để xác định thiệt hại khi có yêu cầu bồi thường, Tòa án cũng căn cứ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn trong một tranh chấp phát sinh do hành vi xâm phạm quyền tác giả, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về vật chất gồm rất nhiều khoản như trả tiền nhuận bút là 6.935.000đ; bồi thường thiệt hại vật chất 5.000.000đ; bồi thường khoản lợi nhuận 14.000.000đ; trả tiền khai thác kinh doanh tác phẩm âm nhạc trên môi trường kỹ thuật số là 2.900.000đ. Thực chất tất cả những khoản liệt kê mà nguyên đơn yêu cầu này đều là thiệt hại về mặt vật chất. Trong đó khoản tiền nhuận bút, lợi nhuận, tiền khai thác kinh doanh tác phẩm âm nhạc đều là thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút. Khi giải quyết thì Tòa án đã xem xét và “chấp nhận khoản tiền nhuận bút. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất số tiền 5.000.000đ theo khoản 1 Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ, điểm d khoản 1 Điều 17 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, xét đây là khoản thu nhập mà người bị thiệt hại thu được từ việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là có căn cứ chấp nhận. Về khoản lợi nhuận mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả từ việc sản xuất đĩa CD là 14.000.000đ và khoản tiền lợi nhuận do việc kinh doanh tác phẩm âm nhạc trên môi trường kỹ thuật số là 2.900.000đ, Hội đồng xét xử căn cứ vào trình bày của bị đơn xác nhận số đĩa phát hành chủ yếu là tặng, không bán được vì bản thân ông Đăng không phải là ca sĩ nổi tiếng là có căn cứ, phù hợp với xác nhận của Công ty cổ phần TT-ĐẢ Sài Gòn tại công văn số 28/CV-VPHP-05 ngày 24/10/2008, như vậy khoản lợi nhuận này phía bị đơn chưa được hưởng và chưa phát sinh, phía nguyên đơn cũng không có chứng cứ nào chứng minh việc bị đơn đã thu được khoản lợi nhuận từ việc sử dụng ca khúc “Giấc mơ vô vọng” của nguyên đơn, do đó yêu cầu đòi số tiền 14.000.000đ (tương đương 10% trên giá tiền đĩa CD trên số băng phát hành) và 2.900.000đ là không có căn cứ chấp nhận” [5]. Như vậy ở đây Tòa án xem xét đến việc bị đơn không thu được lợi nhuận vì số lượng băng đĩa chưa được bán mà chỉ để tặng để bác yêu cầu của nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại. Vụ việc này mặc dù đã có hành vi vi phạm nhưng không thể so sánh thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút vì bị đơn không thu được lợi nhuận từ hành vi trái pháp luật này cũng như chưa bán được sản phẩm nào ra thị trường mà chủ yếu các đĩa CD dùng để tặng. Trong trường hợp giả sử nếu bị đơn đã bán những băng đĩa này ra thị trường thì đây sẽ là cơ sở để có thể xác định thu nhập bị giảm sút bằng cách so sánh thu nhập trước và sau khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền tác giả. Nhưng cũng từ vụ việc này để có thể thấy rằng dường như khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bên vi phạm phải thu được lợi nhuận thì mới là một trong những căn cứ để xác định lợi nhuận bị giảm sút để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Còn trong trường hợp bên xâm phạm mặc dù đã có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhưng chưa thu được lợi nhuận (như hàng mới sản xuất ra chưa bán) thì không có căn cứ để xác định thiệt hại mà yêu cầu bồi thường.
Tuy nhiên, vấn đề xác định thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định để có thể tính toán thiệt hại theo quy định của pháp luật. Không phải trong mọi trường hợp đều có thể so sánh và đưa ra được một số liệu về giảm sút thu nhập, lợi nhuận cụ thể để tính toán thiệt hại. Do vậy, lúc này nhiều khi Tòa án sẽ xem xét rất linh động và căn cứ vào mức độ thiệt hại để xác định mức bồi thường bảo vệ quyền lợi của các bên.
Cụ thể, có thể xem xét trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp đối với đối tượng là kiểu dáng công nghiệp. Sau khi Tòa án xem xét và giải quyết đã chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Ý Thiên, yêu cầu Công ty liên doanh Nhã Quán phải bồi thường thiệt hại, khi xem xét đến thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút thì Tòa án đã có nhận định “Công ty Ý Thiên đã chọn hình thức bồi thường thiệt hại theo luật định là có cơ sở chấp nhận, vì công ty Ý Thiên mới được thành lập tháng 6/2007, đến tháng 7/2007 nhận chuyển nhượng kiểu dáng công nghiệp từ công ty Trường Sanh và đến tháng 8/2007 ra thông báo cho công ty Nhã Quán về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Với khoảng thời gian ngắn như vậy thì công ty Ý Thiên không thể đánh giá được một cách chính xác khoản thu nhập bị mất và những thiệt hại khác là có căn cứ. Việc đánh giá về mức thu nhập bất hợp pháp của công ty Nhã Quán trong việc sử dụng trái phép các kiểu dáng của công ty Ý Thiên cũng không thể thực hiện được. Bởi vì, hiện nay giữa công ty Trường Sanh và công ty Nhã Quán đang có tranh chấp về hợp đồng liên doanh và TAND tỉnh Bình Dương đã có quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, buộc công ty Nhã Quán cung cấp tài liệu, chứng từ kế toán để kiểm toán, nhưng không được ông Kuo Chi Sheng chấp hành. Hiện nay cả Tòa án và đương sự đều không tiếp cận được các chứng từ kế toán. Trong vụ tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp này, công ty Nhã Quán cũng không cung cấp bất kỳ tài liệu nào nên Tòa án cũng không có cơ sở đánh giá chính xác thu nhập của Nhã Quán từ việc sử dụng các kiểu dáng công nghiệp thuộc quyền sở hữu của công ty Ý Thiên. Vì vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo luật định của công ty Ý Thiên là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Xét mức bồi thường về vật chất, HĐXX xét thấy công ty Nhã Quán đã có lỗi cố ý sản xuất hàng hóa có kiểu dáng đã được bảo hộ của công ty Ý Thiên tiêu thụ trên địa bàn nhiều tỉnh liên tục trong khoảng thời gian từ khi được thông báo (27/8/2007) đến nay và vi phạm đối với nhiều kiểu dáng, nên mức bồi thường do Tòa án ấn định là 400.000.000đ là thỏa đáng” [6]. Trong trường hợp này do không xác định cụ thể được mức giảm sút thu nhập, lợi nhuận nên Tòa án đã ấn định mứức bồi thường, căn cứ vào yếu tố lỗi, khu vực địa lý có hành vi phạm và đồng thời nhiều đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm (400.000.000 đồng). Tuy nhiên việc đưa ra một mức bồi thường ấn định không phải là việc dễ dàng. Trong một vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ do hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã có nhiều cách xác định thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút giữa các cấp xét xử. Cụ thể, “…nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại coi số lượng thuốc POSINIGHT mà các bị đơn đã tiêu thụ chính bằng số lượng POSTINOR mà nguyên đơn lẽ ra có thể tiêu thụ được là không có căn cứ, vì trong quá trình kinh doanh, Công ty Trung Nam và Công ty Dược Bình Dương phải áp dụng nhiều biện pháp hợp pháp như khuyến mại, quảng cáo…. Để tiêu thụ sản phẩm của mình và việc Công ty Gedoen bị giảm sút lợi nhuận không chỉ do bị các bị đơn cạnh tranh không lành mạnh, mà còn do nhiều tác động khách quan của thị trường sản phẩm thuốc tránh thai. Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn để xác định mức lợi nhuận của Công ty Gedoen bằng 30% doanh thu bán hàng, trên cơ sở đó xác định mức thiệt hại của Công ty Gedoen là không có căn cứ vững chắc. Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng pháp luật chưa có quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nên đã yêu cầu của các nguyên đơn là không đúng” [7]. Sau đó vụ án này lại được xem xét lại sơ thẩm một lần nữa năm 2010 thì Tòa án đã xác định mức thiệt hại là một con số khác “hành vi của phía bị đơn đã gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất và hậu quả xấu cho phía nguyên đơn nên áp dụng mức bồi thường tối đa là 500.000.000 đồng để buộc bị đơn bồi thường cho nguyên đơn là hợp lý” [8]. Trong trường hợp này khi Tòa án đưa ra mức bồi thường tối đa, Tòa án dường như không nêu cụ thể lý do mà chỉ nhận định chung là hành vi trái pháp luật đã gây hậu quả nghiêm trọng.
Xem thêm bài viết về “Quyền sở hữu trí tuệ”
- Bình luận bản án: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trần Thu Nga
- Nghĩa vụ hạn chế tổn thất và vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Pháp luật thương mại – ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền
- Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường có yếu tố nước ngoài tại Tòa án theo Pháp luật Việt Nam và các nước – TS. Phan Hoài Nam & TS. Võ Trung Tín
- Vấn đề bồi thường thiệt hại phi vật chất theo Công ước VIENNA 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế – Lý luận và thực tiễn xét xử – ThS. Nguyễn Thị Lan Hương & ThS. Phạm Thị Hiền
3. Pháp luật một số quốc gia về vấn đề bồi thường thiệt hại do giảm sút thu nhập, lợi nhuận khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Trên thế giới, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã tồn tại từ lâu đời, xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội cũng như sự phát triển khoa học, công nghệ. Khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, một trong những biện pháp quan trọng thường được áp dụng là buộc bồi thường thiệt hại, với ý nghĩa “bù đắp” lại những khoản thiệt hại mà chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm đã gây ra cho chủ sở hữu đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật một số quốc gia như Nhật Bản, Hoa Kỳ và các nước thuộc Liên minh châu Âu đã đưa ra một số quy định giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do giảm sút về thu nhập, lợi nhuận xuất phát từ hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ với nhiều nội dung tiến bộ.
Theo pháp luật Nhật Bản, trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, Điều 113.1 Luật Quyền tác giả sửa đổi lần cuối cùng vào năm 2004 (Luật số 92 năm 2004)[9] quy định những hành vi được coi là xâm phạm quyền tinh thần của tác giả, quyền tác giả, quyền xuất bản hoặc một số quyền liên quan như:
(i) Nhập khẩu vào Nhật Bản để phân phối những sản phẩm được tạo ra bởi hành vi vi phạm quyền tinh thần của tác giả, quyền tác giả, quyền xuất bản hoặc một số quyền liên quan;
(ii) Phân phối, hoặc sở hữu có chủ ý, ý đồ xấu sản phẩm là hành vi vi phạm quyền tinh thần của tác giả, quyền tác giả, quyền xuất bản hoặc một số quyền liên quan;
(iii) Người có mục đích kinh doanh bằng cách sao chép chương trình máy tính chịu trách nhiệm pháp lý tới mức như hành vi có ý đồ xấu.
Tương tự, theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng quy định về các quyền tài sản thuộc nội dung quyền tác giả, bao gồm quyền sao chép tác phẩm, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm… Đây sẽ là những căn cứ để xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả như sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật…[10] Nhìn chung, cả pháp luật Nhật Bản và Việt Nam đều hướng đến bảo hộ khả năng khai thác giá trị lợi ích từ sáng tạo tinh thần của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, ngăn cản các chủ thể khác sử dụng trái phép tác phẩm. Trong trường hợp có hành vi xâm phạm quyền tác giả, một trong những cơ sở để chủ thể quyền bù đắp những tổn thất của mình là yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Về việc bồi thường thiệt hại, theo quy định của Luật Quyền tác giả Nhật Bản năm 2004, các khoản bồi thường được công nhận bao gồm: thiệt hại thực tế, lợi nhuận từ vi phạm và án phí.
Bồi thường thiệt hại là một trong những biện pháp dân sự đối với hành vi vi phạm quyền tác giả, nguyên đơn của vụ kiện liên quan đến xâm hại quyền tác giả có thể đòi bồi thường từ bị đơn, người cố ý hoặc bất cẩn xâm phạm quyền tác giả của nguyên đơn theo quy định chung tại Điều 709 Bộ luật Dân sự Nhật Bản[11]. Nguyên đơn phải cung cấp bằng chứng về thiệt hại, quy định này khá giống với pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng. Tuy nhiên Điều 114 của Luật Quyền tác giả năm 2004 quy định về sự suy đoán: lợi nhuận từ sự xâm hại, hoặc là số lượng mà nguyên đơn trong điều kiện bình thường nhận được do sử dụng quyền tác giả của mình và quyền liên quan, được coi như là số thiệt hại của nguyên đơn hoặc tính phí bản quyền tác giả. Việc chứng minh thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng là không hề dễ dàng. Trong trường hợp thiệt hại được phát hiện là hậu quả của hành vi xâm phạm bản quyền, và việc chứng minh những yếu tố thực tế để xác định tiền bồi thường thiệt hại là hết sức khó khăn thì tòa án có thể quyết định một khoản tiền bồi thường phù hợp dựa trên kết quả của tranh luận và kết quả của việc kiểm tra chứng cứ (Điều 114-5 đã được sửa đổi bởi Luật số 92 năm 2004).
Nhìn chung, việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền tác giả trước hết được tính dựa trên lợi nhuận mà bên vi phạm thu được từ hành vi trái pháp luật của mình, theo lý luận, những gì mà bên gây thiệt hại có được chính là cái mà đáng lẽ bên bị thiệt hại phải được nhận. Hoặc bằng những cách thức nhất định, chủ thể bị thiệt hại cần chứng minh khoản lợi nhuận, thu nhập mà trong điều kiện bình thường nhận được do sử dụng quyền tác giả của mình. Tuy nhiên những căn cứ này không ngăn cản việc chủ thể bị thiệt hại yêu cầu bồi thường vượt quá mức mà họ trong điều kiện bình thường nhận được.
Bên cạnh đó, một trong những căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại là những doanh thu mà chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ bị mất – doanh thu bị giảm từ việc bán hàng. Người ta tiến hành so sánh lượng hàng bán trong giai đoạn trước và sau khi không có vi phạm để tính chênh lệch, từ đó xác định lượng doanh thu giảm sút làm căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại. Một cách thức khác cũng có thể được áp dụng là lấy lượng hàng bán ra của bên xâm phạm để tính gần đúng doanh thu bị giảm từ việc bán hàng. Tuy nhiên việc tính toán thiệt hại thực tế căn cứ theo doanh số bán ra bị giảm thường chỉ được áp dụng trong trường hợp bên nguyên đơn và bị đơn là đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường.[12]
Tại Hoa Kỳ, việc xác định thiệt hại cũng được tính trên cơ sở doanh thu, lợi nhuận bị giảm sút. Vấn đề lỗi cũng trở thành một trong những yếu tố quan trọng để xác định mức bồi thường, bởi lẽ hành vi xâm phạm một cách cố ý, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bên bị vi phạm xứng đáng chịu một mức bồi thường cao. Đối chiếu pháp luật Việt Nam, lỗi cũng là một yếu tố được dùng làm căn cứ xác định việc bồi thường thiệt hại nói chung và trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng. Tuy nhiên, yếu tố lỗi trong pháp luật nước ta được sử dụng như một trong những căn cứ xác định đủ hay không đủ điều kiện để xác định hành vi xâm phạm, chứ luật Việt Nam không đề cao việc xác định mức bồi thường gấp nhiều lần thiệt hại thực tế xảy ra trong trường hợp phạm lỗi cố ý như pháp luật Hoa Kỳ[13]. Trong một vụ việc tranh chấp về bản quyền, một thực thể được công nhận là tàu sân bay đã thực hiện hành vi truyền thông tin thứ cấp trái phép, từ đó bị cho là hành vi xâm phạm và bị buộc bồi thường thiệt hại không quá 2,5 triệu đô la Mỹ.[14] Theo quy định tại Điều 284 Luật Sáng chế Hoa Kỳ[15], Tòa án có thẩm quyền có quyền tăng khoản bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu lên gấp ba lần thiệt hại thực tế đã xác định hoặc chứng minh đối với các hành vi xâm phạm cố ý.
Theo pháp luật Việt Nam, một trong những nguyên tắc để xác định mức bồi thường thiệt hại là dựa trên thiệt hại thực tế mà nguyên đơn chứng minh được bên thực hiện hành vi xâm phạm đã gây ra cho mình. Như vậy liệu rằng quy định mức bồi thường thiệt hại lớn hơn (ở đây thậm chí là gấp ba lần) là có phù hợp hay không? Trước hết mục đích của việc bồi thường thiệt hại là “bù đắp” cho những tổn thất xảy ra, như vậy có phải mức bồi thường bằng với thiệt hại thì đã đủ thỏa mãn ý nghĩa của chế tài này? Có thể thấy theo quan điểm pháp luật Hoa Kỳ, về mặt nguyên tắc việc bồi thường thiệt hại nhằm mục đích khôi phục lại cho bên nguyên đơn “tình trạng ban đầu” trước khi có hành vi xâm phạm xảy ra, tuy nhiên bên cạnh đó mức bồi thường thiệt hại còn bao hàm mục đích “phạt” dành cho những hành vi xâm phạm mang tính cố ý. Quy định này hơi khác so với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, chẳng hạn tại Anh, việc bồi thường thiệt hại chỉ nhằm mục đích khắc phục hành vi xâm phạm, để bên bị xâm phạm đảm bảo được quyền lợi của mình chứ không nhằm mục đích phạt bên gây thiệt hại.[16] Khi hành vi xâm phạm của chủ thể được thực hiện với lỗi cố ý, Tòa án suy luận rằng anh đã có ý thức chủ động thực hiện sự xâm phạm của mình và xứng đáng phải chịu “hình phạt” cho lỗi này, so với những chủ thể cũng gây ra hành vi xâm phạm nhưng do vô tình hay hạn chế về nhận thức… Bên cạnh đó, pháp luật đề cao quyền lợi của nguyên đơn trong vụ án xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc cho phép quyền lựa chọn căn cứ xác định bồi thường thiệt hại. Thứ nhất, dựa trên thiệt hại thực tế của chủ sở hữu sáng chế bị mất do hành vi xâm phạm sáng chế; hoặc khoản tiền hợp lý cho việc chuyển giao sáng chế được bảo hộ cho bị đơn có thể sử dụng. Trong mọi trường hợp, khoản bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn không thấp hơn khoản tiền chuyển giao sáng chế hợp lý cùng lợi nhuận và chi phí. Thứ hai, dựa trên lợi nhuận của bên vi phạm kiếm được từ hành vi xâm phạm sáng chế. Nguyên đơn sẽ phải lựa chọn một trong các phương pháp tính làm căn cứ xác định số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại trước tòa.
Trong việc lựa chọn căn cứ xác định bồi thường thiệt hại, nhân tố chính ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn phụ thuộc vào việc nguyên đơn cho rằng phương pháp nào khả thi và đưa ra được con số yêu cầu bồi thường cao nhất. Trong hầu hết các trường hợp, việc tính toán được lợi nhuận của bên vi phạm kiếm được từ hành vi xâm phạm sáng chế là không thể. Bởi vì, không phải tất cả các khoản lợi nhuận của bên vi phạm đều được tạo ra từ hành vi xâm phạm. Vì vậy, bên vi phạm dễ dàng sử dụng các biện pháp để che dấu được các khoản lợi nhuận phi pháp, thậm chí lợi nhuận này có thể dễ dàng được chuyển bằng không.
Tại Liên minh châu Âu, căn cứ đầu tiên để tính toán khoản thiệt hại là dựa trên mức lợi nhuận, thu nhập bị giảm sút của chủ thể quyền. Hầu hết các quốc gia trong Liên minh châu Âu định nghĩa khoản lợi nhuận bị giảm sút này là khoản lợi nhuận mà đáng lẽ chủ sở hữu quyền sẽ được hưởng nếu như không có hành vi xâm phạm xảy ra. Việc đánh giá khoản thiệt hại này là điều hoàn toàn không dễ dàng, và tại một số quốc gia thành viên, việc đánh giá này phải nhờ đến quy tắc “ex aequo et bono”[17] hoặc tương tự. Mục đích của cơ chế này là đảm bảo đưa ra một phán quyết công bằng trong trường hợp việc xác định chính xác thiệt hại trở nên quá khó khăn.
Nếu không thể xác định chính xác khoản thiệt hại, Tòa án có thể đánh giá theo một khoản ước tính. Yếu tố được sử dụng để thực hiện việc tính toán lợi nhuận bị mất có thể là khoản lợi nhuận ròng. Số lượng sản phẩm xâm phạm (đôi khi giảm do sự khác biệt trong chất lượng và giá cả cao hơn các sản phẩm ban đầu) được nhân với giá của một sản phẩm để đưa ra mức thiệt hại.[18]
Tại Thụy Điển, người ta đánh giá thiệt hại theo nguyên tắc: Trong trường hợp khách hàng đã mua sản phẩm vi phạm sẽ không mua sản phẩm chính hãng theo một tỷ lệ nhất định, chẳng hạn tỷ lệ này là 1:3 – Một sản phẩm chính hãng: Ba sản phẩm giả. Tại Ý, xác định lợi nhuận bị giảm sút cũng rất khó khăn, pháp luật cho phép chủ thể quyền được lựa chọn bồi thường dựa theo “mức lợi nhuận mà bên có hành vi xâm phạm đạt được” hoặc “mức giảm sút về lợi nhuận của bản thân chủ sở hữu”.
Nói tóm lại, hiện nay vấn đề xác định bồi thường thiệt hại do thu nhập, lợi nhuận bị giảm sút xuất phát từ hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là không hề đơn giản, dù đối với những quốc gia phát triển với lịch sử bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lâu đời. Pháp luật nhiều quốc gia cho phép chủ thể – bên bị thiệt hại được lựa chọn cách thức tính thiệt hại và mức bồi thường tốt nhất cho họ. Quyền sở hữu trí tuệ là một đối tượng có khả năng đem lại nguồn lợi rất lớn cho chủ sở hữu, đặc biệt là trong bối cảnh phát triển hiện nay, nên việc xác định căn cứ và mức bồi thường thỏa đáng là một vấn đề quan trọng.
4. Kiến nghị
Đối chiếu giữa các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực này với pháp luật một số quốc gia trên thế giới, căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại mà pháp luật cũng như Tòa án Việt Nam sử dụng chủ yếu là thông qua sự chênh lệch giữa thu nhập, lợi nhuận thực tế trước và sau khi xảy ra hành vi xâm phạm của bên bị thiệt hại chứ không căn cứ trên cái mà bên gây thiệt hại thu được. Cách quy định này mặc dù khá phù hợp với nguyên tắc chung của bồi thường thiệt hại, theo đó bên gây thiệt hại sẽ phải bồi thường cho những thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm của mình gây ra.Tuy nhiên, căn cứ này chưa phải là cơ sở tốt nhất cho tất cả các trường hợp bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bởi lẽ như phân tích ở trên, sở hữu trí tuệ là sở hữu tài sản vô hình, dễ bị xâm phạm và việc xác định thiệt hại hoàn toàn không dễ dàng. Mặc dù có quy định trong trường hợp không xác định được thiệt hại cụ thể thì sẽ do Tòa án ấn định nhưng như đã trình bày trong một số vụ việc cụ thể ở trên, các căn cứ Tòa án đưa ra còn quá chung chung và chưa thuyết phục.
Do vậy, ở đây tác giả kiến nghị cân nhắc liệu rằng có nên quy định thêm các căn cứ khác làm cơ sở để xác định mức bồi thường do hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ hay không.
Thứ nhất, lợi nhuận mà bên thực hiện hành vi xâm phạm có được có thể xem là căn cứ xác định bồi thường hay không? Pháp luật một số quốc gia đã áp dụng cơ sở này làm căn cứ. Về mặt lý luận, lợi nhuận của bên xâm phạm chính là những “kết quả” thu được do hành vi xâm phạm mà họ gây ra, nên họ không thể được hưởng những lợi ích này mà phải “trả về” cho chủ thể hợp pháp – chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ. Đây là cái mà đáng lẽ chủ sở hữu sẽ nhận được nếu thực hiện khai thác bình thường đối tượng.
Tuy nhiên, rõ ràng nếu coi “lợi nhuận mà bên xâm phạm thu được” bằng “lợi ích mà bên bị xâm phạm thiệt hại” là chưa hợp lý. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, khách quan và chủ quan. Chẳng hạn, công ty A sản xuất sản phẩm mang nhãn hiệu X đã được bảo hộ hợp pháp theo quy định pháp luật. Công ty B sản xuất sản phẩm X’ xâm phạm quyền của công ty A. Thông thường, cái mà công ty B muốn “lợi dụng” khi thực hiện hành vi xâm phạm chính là uy tín, chất lượng sản phẩm X trong lòng người tiêu dùng, làm cho khách hàng bị nhầm lẫn giữa hai sản phẩm này. Hầu hết các sản phẩm X’ có chất lượng kém hơn, giá bán thấp hơn và số lượng, quy mô sản xuất cũng nhỏ hơn so với sản phẩm X. Như vậy trong trường hợp lấy lợi nhuận mà bên gây thiệt hại thu được thì cần phải xem xét kỹ, có thể thêm vào đó một tỷ lệ nhất định giữa sản phẩm gốc – sản phẩm xâm phạm để đảm bảo quyền lợi của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ với 100 sản phẩm X’ được bán ra (tương ứng với mức lợi nhuận nhất định), mức bồi thường sẽ được tính bằng 100 nhân với Y% bằng số lượng Z sản phẩm X (Như cách làm của pháp luật Thụy Điển). Do đó, số lượng sản phẩm mà bên gây thiệt hại đã sản xuất cũng có thể làm căn cứ xác định (được nhân với giá của một sản phẩm để đưa ra mức thiệt hại).
Thứ hai, để đảm bảo quyền tự do định đoạt của chủ sở hữu, nên chăng cho phép bên bị thiệt hại được lựa chọn cách tính thiệt hại phù hợp (hoặc họ cho là phù hợp) bởi đây là quyền lợi của họ, họ hoàn toàn có thể lựa chọn, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình. Điều này cũng khá thích hợp với quy định về hoạt động cung cấp chứng cứ chứng minh, các bên đương sự đưa ra được chứng cứ nào thì có thể giải quyết theo chứng cứ đó (Có thể họ không chứng minh được thiệt hại của mình nhưng chứng minh được cái mà bên gây thiệt hại thu được – và ngược lại).
Thứ ba, liệu rằng có nên xem xét vấn đề lỗi trong việc xác định mức bồi thường hay không? Một hành vi xâm phạm dù theo lỗi cố ý hay vô ý mà gây ra mức thiệt hại như nhau thì sẽ phải bồi thường tương ứng với mức thiệt hại, như vậy có thực sự hợp lý hay không? Theo quy định của pháp luật hiện hành thì yếu tố lỗi là một trong những căn cứ để xác định có trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra hay không. Tuy nhiên, lỗi thì sẽ có nhiều loại[19] và nếu chỉ xem lỗi là một trong các căn cứ thì liệu rằng đã đảm bảo được sự công bằng hay không. Theo quan điểm tác giả, khả năng xảy ra lỗi vô ý trong hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cao hơn so với các tài sản hữu hình, bởi lẽ đặc thù của đối tượng này là sản phẩm của sự sáng tạo, lao động trí óc. Hiện tại, pháp luật chỉ quy định rằng chủ thể gây thiệt hại – làm giảm sút thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu, như vậy bên bị thiệt hại chỉ thu về “những gì mà mình đáng lẽ được hưởng”, chưa thể hiện tính răn đe. Trên thực tế khi Tòa án xem xét giải quyết đã căn cứ vào yếu tố lỗi để xác định mức bồi thường[20].
Mặt khác nên chăng tham khảo quy định của pháp luật Mỹ, trong trường hợp hành vi xâm phạm có lỗi cố ý, mức bồi thường không chỉ bằng thiệt hại thực tế mà còn cộng thêm một tỷ lệ nhất định (với ý nghĩa như một khoản “phạt”) để hạn chế hành vi xâm phạm.
Dưới góc độ thực tiễn, hiện nay các tranh chấp giải quyết liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ chưa nhiều, so với các lĩnh vực khác trong dân sự nói chung. Giải quyết các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ là vấn đề khó, nhiều vụ việc đòi hỏi có kỹ thuật chuyên môn sâu. Nhiều vụ việc liên quan đến bên thứ ba, có các yếu tố nước ngoài, nên quá trình cung cấp tài liệu, chứng cứ giữa các bên thường mất nhiều thời gian, từ đó dẫn đến việc giải quyết thường bị kéo dài. Tòa án thường phải trưng cầu ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và các cơ quan chức năng có liên quan để kết luận đối với hành vi xâm phạm, nên dẫn đến tình trạng Tòa án rất bị động, khó khăn cho việc ra phán quyết. Trong khi đó, bảo hộ sở hữu trí tuệ là bảo hộ có thời hạn [21], dù ít hay nhiều thì quá trình giải quyết tranh chấp kéo dài cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Đây là một vấn đề cần xem xét khắc phục.
CHÚ THÍCH
* ThS, Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
* Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Cách thứ nhất là chủ thể quyền tự mình bảo vệ quyền của mình. Còn cách thứ hai là chủ thể quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm.
[2] Xem thêm Đinh Thị Mai Phương, “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009.
[3] Được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 119/2010/NĐ-CP.
[4] Điểm c khoản 1 Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.
[5] Bản án sơ thẩm số 1549/2010/KDTM-ST ngày 27/9/2010 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
[6] Bản án sơ thẩm số 03/2008/KDTM – ST ngày 11/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
[7] Quyết định giám đốc thẩm số 29/2009/DS-GĐT ngày 09-9-2009 về vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp”.
[8] Bản án sơ thẩm số 1123/2010/DS-ST ngày 4/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
[9] Copyright Research and Information Center (Japan)
http://www.cric.or.jp/english/clj/cl2.html.
[10] Điều 28 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005.
[11] Bộ luật Dân sự Nhật Bản sửa đổi lần cuối năm 2006 – Luật số 78
[12] Xem thêm: Lê Thị Hoàng Thanh và Trương Hồng Quang, “Bồi thường thiệt hại đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả và nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Nhật Bản và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 6 ,2011.
[13] Được quy định lần đầu tiên ở Đạo luật Sherman năm 1890.
[14] The United States Copyright Office, Copyright Law of the United States and Related Laws Contained in Title 17 of the United States Code, Library of Congress, Circular 92, 12/2011.
[15] The United States Patent and Trademark Office (An Agency of the Department of Commerce), The United States Code Title 35 – Patents
http://www.uspto.gov/patents/law/.
[16] Lionel Bently và Brad Sherman, Intellectual Property Law, Third Edition, Oxford University Press, tr. 1117.
Tham khảo các vụ việc: General Tire & Rubber v. Firestone Tyre & Rubber [1976] RPC 197, 214; Lancer Boss v. Henley Forklift Co. [1974] FSR 14.
[17] Thuật ngữ tiếng Latin, mang ý nghĩa là “theo cái đúng và tốt”, trong hoạt động trọng tài, nó có ý nghĩa cho phép các trọng tài viên có quyền xem xét các vấn đề dựa trên quy định của pháp luật và xem xét những gì họ cho là công bằng và bình đẳng trong các vụ việc. Nguyên tắc giải quyết này được quy định tại Điều 38(2) Quy chế Tòa án công lý quốc tế ICJ, theo đó tòa án có thể quyết định các trường hợp ex aequo et bono, nhưng chỉ trong trường hợp các bên thỏa thuận về vấn đề này.
Điều 33 của Ủy ban Liên hợp quốc về Quy tắc Trọng tài Luật thương mại quốc tế (1976) cũng quy định rằng các trọng tài viên sẽ xem xét quy định của pháp luật hiện hành, trừ khi thỏa thuận trọng tài cho phép các trọng tài xem xét ex aequo et bono. Nguyên tắc này cũng được thể hiện trong nhiều bộ luật trọng tài quốc gia và địa phương.
[18] European observatory on counterfeiting and piracy, Damages in Intellectual Property Right, 2009, tr. 2.
[19] Xem thêm Đỗ Văn Đại (2010), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 128 – 147.
[20] Xem lại Bản án sơ thẩm số 1123/2010/DS-ST ngày 4/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
[21] Điều 27, 34, 93, 169 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.
- Tác giả: Nguyễn Thanh Thư* – Nguyễn Phương Thảo**
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02/2015 (87)/2015 – 2015, Trang 27-35
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời