Mục lục
Những yêu cầu đảm bảo giá trị pháp lý và thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng
Tác giả: Nguyễn Mạnh Cường [1] & Đỗ Quốc Dũng [2]
TÓM TẮT
Văn bản công chứng (VBCC) là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của luật công chứng. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC), có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan và có giá trị chứng cứ. Bài viết phân tích những yêu cầu nhằm đảm bảo giá trị pháp lý, hiệu lực của văn bản công chứng và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị pháp lý và thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng là giao dịch dân sự.
1. Những yêu cầu đối với văn bản công chứng
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Công chứng là việc công chứng viên (CCV) của TCHNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu3. Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của luật công chứng4. Như vậy, VBCC gồm có hai loại là hợp đồng, giao dịch được công chứng và bản dịch được công chứng. Trong bài viết chúng tôi phân tích giá trị pháp lý và thời điểm có hiệu lực đối với VBCC là hợp đồng, giao dịch (sau đây gọi chung là giao dịch) được công chứng. Để VBCC có hiệu lực trước hết văn bản đó phải mang đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 thì giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
(i) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
(ii) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
(iii) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
(iv) Hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Trước khi chứng nhận một giao dịch dân sự thì CCV phải xem xét đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nêu trên.
Về chủ thể, trước hết chủ thể phải đáp ứng được quy định về năng lực pháp luật dân sự, ví dụ: Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất5; và năng lực hành vi dân sự, ví dụ: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc6. Khi xem xét năng lực pháp luật và năng lực hành vi của chủ thể, nếu có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng thì CCV phải đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. Kiểm tra năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng là rất quan trọng vì nếu chủ thể không có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập thì hợp đồng sẽ vô hiệu theo quy định tại Điều 122 hoặc 125 BLDS.
Bên cạnh năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của chủ thể, CCV còn phải xem xét đến ý chí của các bên khi tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện. Tính tự nguyện thể hiện trước hết ở phiếu yêu cầu công chứng và nội dung yêu cầu công chứng. CCV bằng kỹ năng giao tiếp kiểm tra để xác định người yêu cầu công chứng đã yêu cầu công chứng giao dịch đúng với ý chí của mình. Nếu có căn cứ cho rằng việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe doạ, cưỡng ép, lừa dối làm cho chủ thể phải giao kết hợp đồng, giao dịch không đúng với ý chí đích thực của mình thì CCV cũng phải đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định.
Trong hoạt động nghề nghiệp CCV không những phải xem xét đến mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội mà còn phải xem xét đến mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Việc xem xét mục đích, nội dung hợp đồng không vi phạm pháp luật là yêu cầu bắt buộc, là trách nhiệm của CCV được quy định tại Điều 46 Luật công chứng. Để giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không vi phạm pháp luật đòi hỏi CCV phải có kiến thức và sự am hiểu pháp luật chuyên sâu trên nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực về dân sự. Luật pháp của chúng ta đang trong quá trình hoàn thiện, do đó CCV không am hiểu pháp luật sẽ rất dễ chứng nhận các giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật và vi phạm pháp luật. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng7. Để biết được giao dịch dân sự có trái đạo đức xã hội hay không thì CCV phải có kiến thức xã hội và vốn sống phong phú.
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Hình thức trong giao dịch dân sự thể hiện bằng lời nói; bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể8. BLDS đã quy định theo hướng không quy định điều kiện về hình thức của giao dịch là điều kiện bắt buộc để giao dịch dân sự có hiệu lực mà thu hẹp phạm vi về điều kiện về hình thức đó là chỉ khi nào luật quy định về hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì lúc đó hình thức của giao dịch mới xem là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: Trong trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc lựa chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực9. Đối với hoạt động công chứng thì mọi giao dịch dân sự phải được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản.
Điều kiện thực hiện giao dịch dân sự
Ngoài các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì trước khi thụ lý hồ sơ công chứng CCV còn phải xem xét đến các điều kiện để thực hiện được giao dịch dân sự đó. Đây chính là những điều kiện cụ thể được áp dụng cho các giao dịch cụ thể được pháp luật chuyên ngành quy định nếu không đáp ứng được các điều kiện này thì VBCC cũng bị vô hiệu, như Khoản 1 Điều 118 Luật nhà ở quy định các điều kiện của nhà ở tham gia giao dịch là nhà ở phải có: i) Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật, trừ các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 118; ii) Nhà ở không thuộc diện đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu; đang trong thời gian sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu có thời hạn; iii) Không bị kê biên để thi hành án hoặc không bị kê biên để chấp hành quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; iv) Không thuộc diện đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở của cơ quan có thẩm quyền. Hoặc như quy định tại Điều 188 Luật đất đai về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có các điều kiện sau: i) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại Khoản 1 Điều 168 của luật này; ii) Đất không có tranh chấp; iii) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; iv) Trong thời hạn sử dụng đất.
Như vậy, để đảm bảo hiệu lực của VBCC thì khi thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch CCV không những phải đảm bảo các điều kiện để giao dịch có hiệu lực theo quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 mà còn phải đảm bảo các điều kiện để thực hiện giao dịch được quy định trong luật chuyên ngành đối với từng loại tài sản cụ thể.
2. Thời điểm có hiệu lực của giao dịch dân sự
Khoản 1 Điều 401 BLDS quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”. Theo quy định này sẽ có ba thời điểm có hiệu lực của hợp đồng đó là thời điểm giao kết hợp đồng, thời điểm do các bên thoả thuận trong hợp đồng và thời điểm luật liên quan có quy định khác. BLDS quy định riêng thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho, nếu tặng cho động sản thì thời điểm có hiệu lực là thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thoả thuận khác10; đối với bất động sản thì hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì có hiệu lực từ thời điểm chuyển giao tài sản11. Khoản 3 Điều 188 Luật đất đai quy định “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký đất đai và có hiệu lực từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính”, với quy định này thì chữ “Việc” được hiểu là “hợp đồng có hiệu lực” hay là “hoạt động đăng ký” có hiệu lực? Trong khi đó Luật công chứng quy định “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”, với quy định này thì chắc chắn rằng hợp đồng, giao dịch được công chứng sẽ chỉ có một thời điểm có hiệu lực đó là thời điểm công chứng viên ký và đóng dấu của TCHNCC. Luật nhà ở cũng quy định hai thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, một là đối với những giao dịch nhà ở bắt buộc phải công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực12. Đối với giao dịch không bắt phải công chứng thì thời điểm có hiệu lực do các bên thoả thuận, nếu không có thoả thuận thì thời điểm có hiệu lực là thời điểm ký kết hợp đồng13. Như vậy, Luật nhà ở quy định theo hướng nếu giao dịch phải công chứng thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng phù hợp quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng. Tuy nhiên, chỉ khi giao dịch đối với nhà ở là căn hộ hoặc chỉ là tài sản gắn liền với đất được giao dịch tách rời với quyền sử dụng đất thì mới áp dụng được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở, còn nếu giao dịch cả nhà và quyền sử dụng đất chung thì sẽ có sự không thống nhất về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở và hiệu lực đối với hợp đồng về quyền sử dụng đất. Trong thực tiễn cũng sẽ xảy ra trường hợp các bên thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nhưng luật lại quy định thời điểm có hiệu lực khác với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thì xác định thời điểm nào là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng? BLDS năm 2015 không đưa ra ưu tiên lựa chọn trong trường hợp này nếu có sự khác nhau về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Xác định thời điểm hợp đồng có hiệu lực có nhiều ý nghĩa, một là, khi hợp đồng có hiệu lực thì các bên mới phải thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng với nhau, do đó nếu bên nào vi phạm thì mới có quyền huỷ bỏ trong trường hợp vi phạm điều kiện về huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt nếu bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ. Hai là, hợp đồng đã có hiệu lực thì việc xử lý vi phạm đối với hợp đồng khác xa so với việc xử lý hợp đồng vô hiệu14. Ba là, khi hợp đồng có hiệu lực các bên đã bị ràng buộc nhau bởi hợp đồng, một trong các bên không thể đơn phương rút khỏi hợp đồng, không thể đơn phương thay đổi nội dung hợp đồng nếu không không được bên kia đồng ý.
3. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Hiệu lực thi hành của VBCC
Khoản 2 Điều 5 Luật công chứng quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác”. Khoản 2 Điều 401 BLDS quy định: “Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi hợp đồng, giao dịch được công chứng thì hợp đồng, giao dịch đó phải đảm bảo về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao dịch. Do đó, các bên phải thực hiện cam kết của mình một cách thiện chí, trung thực và phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết. Quy định này cho thấy hậu quả pháp lý nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết hoặc được giải quyết theo thỏa thuận của các bên trong VBCC.
Giá trị chứng cứ của VBCC
Khoản 3 Điều 5 Luật công chứng quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ, những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyến bố là vô hiệu”. Như vậy, ngoài giá trị thi hành đối với các bên, thì khi giao dịch xảy ra tranh chấp thì VBCC là chứng cứ được các bên sử dụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
VBCC được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. VBCC khác với hợp đồng, giao dịch không được công chứng ở chỗ hợp đồng, giao dịch không được công chứng cũng có thể là chứng cứ để các bên giao nộp cho Tòa án nhưng đương sự phải chứng minh các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng giao dịch đó là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại đối với VBCC thì những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong VBCC là những tình tiết sự kiện không phải chứng minh. Trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của VBCC thì thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng xuất trình bản gốc, bản chính.
Những tình tiết, sự kiện trong VBCC không phải chứng minh bởi vì bất kỳ giao dịch dân sự nào cũng chứa đựng những yêu cầu (điều kiện) nhất định nhằm đảm bảo cho việc giao dịch được diễn ra phù hợp với các quy định của pháp luật. Do đó, trước khi thực hiện chứng nhận một hợp đồng giao dịch, CCV bao giờ cũng phải đảm bảo quy trình công chứng, hồ sơ công chứng theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, CCV còn phải xem xét làm rõ các sự kiện, tình tiết (ý chí giao kết, năng lực pháp luật, năng lực hành vi, đối tượng, nội dung… ) của giao dịch dân sự và phải làm cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng, đảm bảo tính xác thực về thời gian, địa điểm công chứng, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch. Trước khi thực hiện việc công chứng thì CCV phải giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch. Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của VBCC còn được thể hiện ở chỗ trong trường hợp có căn cứ cho rằng hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì CCV đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối yêu cầu công chứng. Như vậy, có thể thấy đối với VBCC thì những tình tiết, sự kiện trong VBCC luôn luôn phải được CCV làm rõ, công khai cho người yêu cầu công chứng đều biết và được CCV kiểm tra, đối chiếu một cách cẩn thận. Ví dụ: Khi chứng nhận các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản thì điều đầu tiên công chứng viên phải xem xét xem đây là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, trên cơ sở đó công chứng viên mới xem xét đến các giấy tờ, tài liệu mà người yêu cầu cung cấp, nếu là tài sản riêng thì cần giấy tờ gì, nếu là tài sản chung thì cần phải có giấy tờ gì? Hoặc trường hợp nhận chuyển nhượng đất trồng lúa thì công chứng viên phải xem xét xem bên nhận chuyển nhượng có đủ điều kiện để nhận chuyển nhượng đất trồng lúa theo quy định của Luật đất đai hay không. Sau khi kiểm tra tất cả các tình tiết, sự kiện, nội dung của VBCC, trước khi ghi lời chứng và ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch công chứng viên còn phải yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình các giấy tờ bản chính các giấy tờ trong hồ sơ công chứng để đối chiếu.
Quy định về giá trị chứng cứ không cần phải chứng minh của VBCC không làm mất đi quyền đánh giá chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự, vì trong trường hợp các bên có chứng cứ ngược lại để chứng minh rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật thì họ có quyền đề nghị Tòa án bác bỏ các tình tiết, sự kiện này bằng cách yêu cầu tuyên bố VBCC đó vô hiệu.
Tóm lại, VBCC luôn được thừa nhận và có giá trị pháp lý cao hơn các hợp đồng, giao dịch không được công chứng vì VBCC là sản phẩm của CCV, người được Nhà nước ủy nhiệm thực thi việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. VBCC là kết quả của một quy trình công chứng chặt chẽ theo quy định của Luật công chứng, VBCC không chỉ được đảm bảo bởi đạo đức của CCV mà còn được đảm bảo bằng trách nhiệm vật chất (bồi thường thiệt hại) của CCV nếu CCV không đảm bảo đúng quy định của pháp luật trong hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch.
4. Kiến nghị
Một là, quy định về lời chứng của công chứng viên tại Điều 46 Luật công chứng năm 2014 với nội dung “(…) chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự (…)”, quy định này hoàn toàn phù hợp với quy định điều kiện hợp đồng có hiệu lực theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 122 BLDS năm 2005, tuy nhiên nó lại có sự khác biệt đối với điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 đó là “ (…) chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập (…). Do đó, chúng tôi kiến nghị cần sửa đổi nội dung Điều 46 Luật công chứng năm 2014 cho phù hợp với quy định tại tại điểm a Khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 đó là: “(…) chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”.
Hai là, trong trường hợp có sự mâu thuẫn về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận và do luật quy định thì giải quyết theo hướng nếu hợp đồng, giao dịch có công chứng thì hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm được công chứng; nếu hợp đồng không có công chứng thì thời điểm có hiệu lực do các bên thoả thuận trong hợp đồng trừ trường hợp pháp luật có quy định khác thì áp dụng theo quy định của pháp luật đó. Ba là, kiến nghị sửa đổi Khoản 3 Điều 188 Luật đất đai theo hướng phân định rõ thời điểm có hiệu lực của giao dịch về quyền sử dụng đất và thời điểm có hiệu lực của việc đăng ký đất đai, nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sĩ, Trưởng Phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh.
- Thạc sĩ, Phó trưởng Phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh.
- Khoản 1 Điều 2 Luật công chứng.
- Khoản 4 Điều 2 Luật công chứng.
- Khoản 2 Điều 173 Luật đất đai.
- Khoản 2 Điều 625 BLDS năm 2015.
- Điều 123 BLDS năm 2015.
- Khoản 1 ĐIều 119 BLDS năm 2015.
- Khoản 2 ĐIều 48 BLDS năm 2015.
- Khoản 1 Điều 458 BLDS năm 2015.
- Khoản 2 Điều 459 BLDS năm 2015.
- Khoản 1 Điều 122 Luật nhà ở .
- Khoản 2 Điều 122 Luật nhà ở.
- Chu Xuân Minh (2019), Phân biệt thời điểm có hiệu lực của hợp đồng với thời điểm chuyển quyền sở hữu, tại trang web https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/phan-biet-thoi-diem-co-hieu-luc-cua-hop- dong-voi-thoi-diem-chuyen-quyen-so-huu truy cập lần cuối ngày 16/12/2019.
Trả lời