Mục lục
Một số bất cập trong quy định về quyền thừa kế thế vị liên quan đến hoạt động công chứng
Tác giả: Hoàng Thị Hải Yến & Hồ Thị Bảo Ngọc
TÓM TẮT
Thừa kế thế vị là quyền thừa kế phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, pháp luật dân sự hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong việc chứng minh điều kiện hưởng thừa kế thế vị khi áp dụng vào thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn hoạt động công chứng. Bài viết dưới đây khái quát quy định chung của pháp luật Việt Nam liên quan đến xác định điều kiện phát sinh quyền thừa kế thế vị, đưa ra một số bất cập trong việc chứng minh quyền thừa kế thế vị trong thực tiễn hoạt động công chứng và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật.
1. Quy định về thừa kế thế vị trong pháp luật Việt Nam
Thừa kế là sự chuyển giao quyền sở hữu tài sản của người đã chết sang cho người còn sống dựa trên hai nguyên tắc: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo quy định của pháp luật. Để đủ điều kiện hưởng di sản do người chết để lại, người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết3. Như vậy, người thừa kế không còn sống vào thời điểm mở thừa kế, họ đương nhiên không được quyền thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật dân sự đã xây dựng thêm một điều khoản ngoại lệ nhằm đề cao ý nghĩa của quan hệ huyết thống trong gia đình, gọi là quyền thừa kế thế vị. Quyền thừa kế thế vị được quy định từ thời điểm áp dụng Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế (TT số 81/TANDTC): “Người con nào (kể cả con nuôi) chết trước người để thừa kế, thì các con của người đó (tức là các cháu của người để thừa kế) sẽ hưởng phần thừa kế của bố hoặc mẹ mình (thừa kế thế vị)”. Tuy nhiên, TT số 81/TANDTC chỉ áp dụng quyền thừa kế thế vị đến đời cháu (kể cả cháu nuôi) của người để lại di sản, đồng thời chỉ áp dụng khi con (kể cả con nuôi) của người để lại di sản chết trước người để lại di sản. Từ khi ban hành Pháp lệnh thừa kế năm 1990 ngày 10/9/1990 cho đến khi áp dụng Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, quyền thừa kế thế vị bắt đầu được áp dụng đến đời chắt của người để lại di sản, nhưng vẫn duy trì quy định điều kiện áp dụng thừa kế thế vị giống như TT số 81/TANDTC5. Tuy nhiên, từ BLDS năm 2005 có hiệu lực cho đến nay, điều kiện hưởng thừa kế thế vị đã thay đổi. Theo quy định tại Điều 677 BLDS năm 2005 và Điều 652 BLDS năm 2015, quyền thừa kế thế vị phát sinh nếu có sự kiện người con hoặc người cháu “chết trước hoặc cùng một thời điểm” với người để lại di sản thừa kế, cụ thể: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Từ định nghĩa của BLDS năm 2015, quyền thừa kế thế vị được áp dụng khi thỏa mãn ba điều kiện sau:
Thứ nhất, con hoặc cháu của người để lại di sản phải chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản.
Theo quy định tại Điều 621 BLDS năm 2015, quyền thừa kế thế vị phát sinh khi thỏa mãn nguyên tắc đầu tiên là sự kiện “chết trước”. Con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được quyền thế vị. Nếu cháu người để lại di sản cũng chết trước người để lại di sản thì chắt được quyền thừa kế thế vị. Trong y học, chết là sự chấm dứt của mọi hoạt động sống như hô hấp trao đổi chất sự phân chia các tế bào đều được chấm dứt vĩnh viễn. Chết thường được chia làm hai loại: chết lâm sàng mà các phương pháp khám lâm sàng cho phép xác định là chết (tim ngừng đập, ngừng thở, mất tri giác…); chết thật, khi các mô không còn hoạt động được nữa và bắt đầu phân hủy6. Khi có sự kiện chết, quyền thừa kế thế vị thỏa mãn một trong những điều kiện phát sinh, thì người có quyền thừa kế thế vị có quyền liên hệ với các tổ chức hành nghề công chứng để yêu cầu công chứng các văn bản xác lập quyền thừa kế. Tuy nhiên, trong hoạt động công chứng, người yêu cầu công chứng phải cung cấp được các giấy tờ có tính xác thực và tính hợp pháp để chứng minh yêu cầu công chứng của mình. Ở góc độ pháp lý, cá nhân chết phải được khai tử theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Theo quy định của Luật hộ tịch năm 2014, cơ quan đăng ký hộ tịch xác nhận vào sổ hộ tịch sự kiện khai tử theo trình tự thủ tục quy định8. Sau khi đăng ký khai tử, người đi đăng ký khai tử được cấp “trích lục khai tử”, có đầy đủ các thông tin: Họ, chữ đệm, tên, năm sinh của người chết; số định danh cá nhân của người chết (nếu có); nơi chết; nguyên nhân chết; giờ, ngày, tháng, năm chết theo dương lịch; quốc tịch nếu người chết là người nước ngoài… Như vậy, trong hoạt động công chứng, công chứng viên phải căn cứ vào “trích lục khai tử” để đối chiếu, xác định sự kiện chết trước của con hoặc cháu của người để lại di sản.
Thứ hai, con hoặc cháu người để lại di sản phải “được hưởng phần di sản nếu còn sống”.
Thừa kế thế vị là thay vào vị trí của người chết trước để hưởng. Do đó, thừa kế thế vị phát sinh nếu bản thân người người con hoặc người cháu đã chết trước đủ điều kiện để hưởng di sản từ người để lại di sản nếu còn sống. Căn cứ theo quy định của BLDS năm 2015, người thừa kế vi phạm một trong những trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015, họ không được quyền thừa kế (tước quyền thừa kế). Như vậy, con hoặc cháu của người để lại di sản khi còn sống đã vi phạm Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 thì cháu, chắt của người để lại di sản không được quyền thừa kế thế vị. Trong thực tiễn xét xử, vi phạm Điều 621 BLDS năm 2015 dẫn đến mất quyền thừa kế thế vị đã được hướng dẫn tại Phiếu chuyển số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vấn đề vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính: “Trường hợp một người đã không được quyền hưởng di sản theo Khoản 1 Điều 621 của Bộ luật dân sự, như bị kết án về hành vi ngược đãi nghiêm trọng người cha thì họ sẽ không được hưởng di sản của người cha. Do vậy, nếu họ còn sống khi cha chết thì họ cũng không được hưởng di sản thừa kế nên không có “phần được hưởng nếu còn sống” để cho người khác hưởng thế vị”.
Trong thực tiễn hoạt động công chứng, những người thừa kế phải chứng minh có hành vi vi phạm Khoản 1 Điều 621 của người chết trước, dẫn đến không còn phát sinh quyền thừa kế thế vị. Căn cứ điểm a, điểm c Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015, hành vi vi phạm được xác định bằng bản án có hiệu lực của Tòa án. Tuy nhiên, hành vi vi phạm quy định tại điểm b, điểm d Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015, nhà làm luật lại chưa có tiêu chí xác định cụ thể. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung hành vi, tác giả cho rằng, chỉ có Tòa án mới đủ thẩm quyền xác định hành vi vi phạm. Bởi lẽ, Tòa án là cơ quan tài phán có thẩm quyền trong việc đánh giá và kết luận “hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản” trên cơ sở xem xét các chứng cứ chứng minh. Đối với trường hợp lừa dối, cưỡng ép, đe dọa người để lại di chúc…, di chúc sẽ vô hiệu. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thông qua bản án, quyết định có hiệu lực. Như vậy, trong mọi trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015, công chứng viên phải căn cứ vào bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án để xác định người không được quyền hưởng di sản. Trong thực tiễn, những người thừa kế vẫn có hành vi không khách quan, không trung thực, che giấu thông tin về bản án đã có hiệu lực. Vì thế, đối với việc xác định người thừa kế có thuộc trường hợp không được hưởng di sản hay không, công chứng viên cần kiểm tra thêm mục “nguyên nhân chết” thể hiện trên “trích lục khai tử” của người để lại di sản. Nếu có dấu hiệu nghi ngờ, công chứng viên có quyền yêu cầu làm rõ, xác minh theo đề nghị của người yêu cầu công chứng.
Thứ ba, thừa kế thế vị chỉ được áp dụng cho quan hệ giữa người để lại di sản – con – cháu – chắt theo chiều dọc, không áp dụng theo chiều ngược lại.
Theo quy định tại Điều 652 BLDS, thừa kế thế vị chỉ phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống gồm: người để lại di sản – con – cháu – chắt. Thừa kế thế vị chỉ áp dụng theo chiều cháu thế vào vị trí con của người để lại di sản để hưởng phần mà người con nếu còn sống được hưởng; nếu cháu cũng chết trước thì chắt được thay cháu thế vào vị trí của người con nếu còn sống được hưởng, không áp dụng chiều ngược lại. Như vậy, trong hoạt động công chứng, công chứng viên phải kiểm tra các giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản với con – cháu – chắt, thông qua giấy khai sinh được cấp đúng quy định của pháp luật hộ tịch. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng, những người có quyền thừa kế phải có quan hệ huyết thống trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế vị trí của cha, mẹ đẻ). Trong trường hợp A nhận nuôi B, B nhận nuôi C thì thế vị không được đặt ra trong mọi trường hợp. Vì con nuôi của một người không đương nhiên trở thành cháu nuôi của người khác10. Tuy nhiên, quan điểm trên dường như không phù hợp với các quy định khác có liên quan. Cụ thể, theo Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010 “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Từ đó, BLDS năm 2015 cũng đã quy định cụ thể quyền thừa kế thế vị của con nuôi đối với cha mẹ nuôi. Bên cạnh đó, theo Điều 654 BDLS năm 2015, con riêng cũng được quyền thừa kế thế vị từ bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Như vậy, những người có quyền thừa kế thế vị của nhau không bắt buộc phải có quan hệ huyết thống trực hệ.
Thừa kế thế vị là quan hệ mang tính thay thế vị trí thừa kế nếu các chủ thể thỏa mãn điều kiện luật định. Trong thừa kế thế vị, cháu hoặc chắt người để lại di sản có quyền thay vào vị trí con của người để lại di sản nếu người con còn sống được hưởng. Tuy nhiên, bên cạnh thừa kế thế vị, pháp luật dân sự còn có quy định về nguyên tắc thừa kế theo hàng. Căn cứ Điều 651 BLDS năm 2015, con đẻ, con nuôi thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Những người ở hàng thừa kế sau được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Xuất phát từ vấn đề này, trong hoạt động công chứng, có quan điểm cho rằng khi không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất, thừa kế thế vị không thể phát sinh, cháu người để lại di sản được thừa kế theo hàng hai. Quan điểm này có thể mô phỏng qua ví dụ sau:
Ông Nguyễn Văn A có em ruột là bà Nguyễn Thị B, vợ là Trần Thị C, con ruột là Nguyễn Văn X và Nguyễn Văn Y. Nguyễn Văn X có một người con là Nguyễn Văn X1. Năm 2006, vợ ông A là bà C qua đời. Năm 2013, con ông A là Nguyễn Văn X qua đời. Năm 2015, Nguyễn Văn Y chết. Năm 2020, ông Nguyễn Văn A chết. Như vậy, tại thời điểm mở thừa kế, hàng thừa kế thứ nhất của ông A là vợ (bà C) và hai con đều không còn ai. Căn cứ Khoản 3 Điều 651 BLDS năm 2015, do hàng thừa kế thứ nhất của ông A không còn, cháu của ông A là Nguyễn Văn X1 trở thành người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai, không áp dụng thừa kế thế vị.
Như vậy, theo quan điểm trên, quyền thừa kế theo hàng có thứ tự áp dụng ưu tiên so với quyền thừa kế thế vị. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, nguyên tắc áp dụng trên là không phù hợp, làm mất đi ý nghĩa của thừa kế thế vị. Xét về mặt kết cấu điều luật, thừa kế theo hàng quy định tại Điều 651, độc lập với quyền thừa kế thế vị được quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015. Vì lẽ đó, trong trường hợp phát sinh quyền thừa kế giữa con nuôi và cha mẹ nuôi, nhà làm luật cũng đã xác định quyền thừa kế riêng biệt giữa thừa kế theo hàng và thừa kế thế vị. Ngoài ra, như đã phân tích, quyền thừa kế thế vị có nguyên tắc áp dụng riêng, mang ý nghĩa kế thừa giữa những người có quan hệ huyết thống, không thể áp dụng phụ thuộc vào hàng thừa kế quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015. Quan điểm của tác giả cũng thống nhất với quan điểm của một tác giả khác khi phân tích ở góc độ thực tiễn xét xử: “Trong thực tế còn có thể xảy ra trường hợp tất cả những người con của người để lại di sản đều chết trước (không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất) nhưng con của người con chết trước vẫn còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp này, con của người con (tức cháu của người để lại di sản) được hưởng di sản với tư cách là người thừa kế thế vị”.
2. Một số bất cập liên quan đến thừa kế thế vị trong thực tiễn hoạt động công chứng và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
Quyền thừa kế thế vị đã được ghi nhận từ rất sớm trong pháp luật dân sự, được duy trì qua quá trình xây dựng và hoàn thiện chế định thừa kế. Tuy nhiên, thực tiễn đa dạng và phức tạp dẫn đến nhiều nguyên tắc trong quy định về thừa kế thế vị trở nên khó áp dụng, đặc biệt trong thực tiễn hoạt động công chứng, điều đó được thể hiện ở các vấn đề sau:
Thứ nhất, bất cập trong quy định của pháp luật dân sự về việc xác định giấy tờ chứng minh sự kiện chết.
Quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế thế vị nói riêng đều phát sinh trên sự kiện người để lại thừa kế đã chết. Sau thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền liên hệ với tổ chức hành nghề công chứng để yêu cầu công chứng một số văn bản liên quan đến quyền thừa kế của mình. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 40 Luật công chứng năm 2014, người yêu cầu công chứng phải cung cấp hồ sơ yêu cầu công chứng, trong đó có “Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có”, đảm bảo xác thực và được cấp hợp pháp. Từ quy định của BLDS năm 2015 về thời điểm mở thừa kế, hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh sự kiện chết của người để lại di sản và người con hoặc người cháu chết trước người để lại di sản. Theo quy định của pháp luật hộ tịch, người chết phải được cấp “trích lục khai tử” theo biểu mẫu đúng quy định tại mỗi thời kỳ. Tuy nhiên, trong thực tiễn, người thừa kế thường xuyên không cung cấp được giấy khai tử hoặc giấy chứng tử theo đúng quy định của pháp luật hộ tịch tại thời điểm chết. Xuất phát từ tình hình chiến tranh, tình trạng cư trú, người chết vào thời điểm còn nhỏ tuổi…, người thừa kế thường không đăng ký khai tử cho người chết. Trong thực tiễn, người thừa kế thường xuất trình tại Tổ chức hành nghề công chứng một số giấy tờ sau để chứng minh có sự kiện chết: Giấy báo tử do Thủ trưởng cơ sở y tế cấp; Giấy xác nhận việc thi hành án tử hình do Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình cấp; Bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án tuyên bố một người chết; Bằng liệt sĩ, bằng tổ quốc ghi công đối với liệt sĩ; Thẻ mộ; Sổ hộ khẩu ghi “xóa chết”; Tờ khai gia đình xác nhận có sự kiện chết…
Theo quy định của pháp luật hộ tịch, những giấy tờ trên là căn cứ để cơ quan hộ tịch cấp giấy khai tử. Như vậy, dẫn chiếu lại quy định của Luật công chứng năm 2014, những giấy tờ trên dường như không đảm bảo yếu tố hợp pháp trong việc Nhà nước xác nhận sự kiện chết của một cá nhân. Trong trường hợp này, công chứng viên có thể hướng dẫn người yêu cầu công chứng thực hiện đăng ký khai tử. Tuy nhiên, thủ tục đăng ký khai tử sẽ gặp khó khăn, xuất phát từ thẩm quyền đăng ký. Theo quy định, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người chết có thẩm quyền cấp giấy khai tử. Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng, UBND cấp xã nơi người đó chết hoặc nơi phát hiện thi thể của người chết có thẩm quyền đăng ký khải tử13. Trong trường hợp đăng ký lại khai tử, UBND cấp xã nơi đã đăng ký khai tử trước đây thực hiện đăng ký lại khai tử14. Trong khi đó, đơn vị hành chính thường xuyên có tình trạng thay đổi dẫn đến khó xác định UBND cấp xã có thẩm quyền. Ngoài ra, người đăng ký khai tử còn thường gặp khó khăn trong việc không cung cấp được giấy tờ chứng minh sự kiện chết theo quy định của pháp luật hộ tịch để tiến hành đăng ký khai tử. Trên thực tế, công chứng viên thường xuyên gặp tình huống sự kiện chết đã xảy ra từ rất lâu, chết từ nhỏ, chết trong chiến tranh… và gia đình không cung cấp được giấy khai tử, chỉ cung cấp được một số loại giấy tờ như tờ khai gia đình, lý lịch Đảng, thẻ mộ, bằng Tổ quốc ghi công… Khi phát sinh những sự kiện trên, người yêu cầu công chứng khá khó khăn trong việc thực hiện đăng ký hoặc đăng ký lại khai tử theo quy định của pháp luật hộ tịch.
Tham chiếu quy định của Luật công chứng năm 2014, khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản, người thừa kế phải cung cấp “giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết”. Tuy nhiên, quy định trên chưa được quy định trong thủ tục công chứng văn bản khai nhận di sản, văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Ngoài ra, theo quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp; hợp tác xã (NĐ số 82/2020/NĐ-CP), việc công chứng văn bản khai nhận di sản, văn bản thỏa thuận phân chia di sản khi không có giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết hoặc người thừa kế đã chết (nếu có), việc công chứng của công chứng viên sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định15. Có thể thấy, Luật công chứng năm 2014 và NĐ số 82/2020/NĐ-CP đều có quy định mở theo hướng có thể sử dụng giấy tờ khác chứng minh sự kiện chết ngoài giấy chứng tử. Vì lẽ đó, để tạo thuận tiện cho người yêu cầu công chứng trong việc chứng minh sự kiện chết, tác giả cho rằng pháp luật công chứng cần thống nhất quy định người thừa kế có thể cung cấp “giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết” khi có yêu cầu công chứng các văn bản về thừa kế, bao gồm cả chứng minh điều kiện phát sinh quyền thừa kế thế vị. Để đảm bảo tính xác thực thông tin, giấy tờ khác chứng minh sự kiện chết cần phải thỏa mãn các tiêu chí gồm: phải có đầy đủ thông tin về người chết, do cơ quan có thẩm quyền xác nhận để chứng minh có sự kiện chết.
Thứ hai, bất cập trong việc nhận diện điều kiện thừa kế thế vị của con riêng đối với bố dượng, mẹ kế.
Quyền thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế được quy định từ Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, sau đó tiếp tục được ghi nhận tại Pháp lệnh thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015. Theo quy định tại Điều 654 BLDS năm 2015, con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế thế vị. Như vậy, tiêu chí “có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” là điều kiện phát sinh quyền thừa kế thế vị của con riêng đối với bố dượng, mẹ kế. Tuy nhiên, pháp luật dân sự hiện hành chưa có quy định hướng dẫn việc chứng minh có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thực tiễn, có quan điểm cho rằng, quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế phải diễn ra hai chiều: “Thuật ngữ “chăm sóc, nuôi dưỡng nhau” có thể được hiểu là người mẹ kế (hay cha dượng) phải “chăm sóc, nuôi dưỡng” con riêng của chồng (hay vợ), đồng thời con riêng của chồng (hay vợ) cũng phải “chăm sóc, nuôi dưỡng” người mẹ kế (hay cha dượng. Nói cách khác, với cách hiểu này thì cần có sự “có đi có lại” giữa hai thế hệ”16. Tuy nhiên, tác giả cho rằng cách hiểu trên không phù hợp về mặt thực tiễn. Chăm sóc, nuôi dưỡng một người là vấn đề xuất phát chính từ yếu tố đạo đức, tình cảm gia đình. Ở góc độ kinh tế, khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng người khác phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của mỗi cá nhân. Trong trường hợp người con riêng từng được bố dưỡng, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng không có hoặc chưa có năng lực để chăm sóc, nuôi dưỡng lại bố dượng, mẹ kế (con riêng chưa thành niên, con riêng bị mất hoặc khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi…), việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” không phù hợp với giá trị của quyền thừa kế trong trường hợp được đặt ra.
Quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế có giá trị chứng minh cao nhất trong khi có sự thừa nhận từ hai phía. Tuy nhiên, trong trường hợp bố dượng, mẹ kế đã chết, quyền và nghĩa vụ chứng minh thuộc về con riêng. Khi phát sinh thêm thừa kế thế vị đối với con riêng, tỉ lệ phần di sản được hưởng của những đồng thừa kế khác sẽ bị ảnh hưởng. Để bảo vệ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế, BLDS năm 2015 đề cao thỏa thuận của những người thừa kế thông qua việc ghi nhận quyền của của họ như: giải thích nội dung di chúc17; cử người quản lý di sản; thỏa thuận phân chia di sản… Xuất phát từ nguyên tắc của công chứng là chứng nhận sự tự thỏa thuận của các bên, văn bản công chứng cũng phải đảm bảo ghi nhận sự tự do, tự nguyện, không tranh chấp. Vì thế, công chứng viên cũng cần tôn trọng sự tự thỏa thuận của những đồng thừa kế trong việc thừa nhận quyền thừa kế của con riêng từng có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng với bố dượng, mẹ kế. Do đó, tác giả cho rằng, pháp luật công chứng cần cho phép công chứng viên áp dụng nguyên tắc trên thông qua thủ tục họp mặt những người thừa kế, ghi nhận cụ thể bằng “Biên bản họp mặt những người thừa kế”18, qua đó xác định quyền thừa kế thế vị của con riêng đối với bố dượng, mẹ kế.
Thứ ba, bất cập liên quan đến xác định quyền thừa kế thế vị trong trường hợp có hành vi vi phạm Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015.
Theo quy định của pháp luật dân sự, thừa kế thế vị phát sinh cho cháu hoặc chắt người để lại di sản nếu người con hoặc cháu còn sống đủ điều kiện được hưởng. Trong trường hợp người con hoặc cháu khi còn sống đã vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015, cháu hoặc chắt không được quyền thừa kế thế vị. Tuy nhiên, người được quyền thừa kế thế vị vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS thì quyền thừa kế thế vị có còn phát sinh không, BLDS năm 2015 quy định vẫn còn chưa cụ thể. Minh chứng cho vấn đề này, tác giả đưa ra ba trường hợp sau:
Ông Nguyễn Văn A (chết năm 2019), có con là Nguyễn Văn B (chết năm 2016). Nguyễn Văn B có con là Nguyễn Văn C.
Trường hợp 1: Năm 2014, ông Nguyễn Văn B bị kết án về tội cố ý gây thương tích cho ông Nguyễn Văn A.
Trường hợp 2: Năm 2015, ông Nguyễn Văn C bị kết án về tội cố ý gây thương tích cho ông Nguyễn Văn B.
Trường hợp 3: Năm 2018, Nguyễn Văn C bị kết án về tội cố ý gây thương tích cho ông Nguyễn Văn A.
Xem xét ba điều kiện phát sinh quyền thừa kế thế vị, người con hoặc người cháu nếu còn sống không được quyền hưởng di sản do vi phạm Khoản 1 Điều 621 BLDS, cháu hoặc chắt người để lại di sản không được quyền thừa kế thế vị. Như vậy, điều kiện “được hưởng” chỉ áp dụng với người đã chết trước trong giả thiết họ còn sống, không đề cập đến người đang được phát sinh quyền thừa kế thế vị. Ngoài ra, Điều 652 BLDS năm 2015 cũng không đặt ra một trường hợp ngoại lệ “trừ trường hợp luật có quy định khác” để dẫn chiếu đến quy định tại Điều 621 BLDS năm 2015. Có thể nói, quy định về thừa kế thế vị vẫn còn bỏ sót các trường hợp người thừa kế thế vị không được quyền thừa kế khi bản thân họ có những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội.
Thừa kế thế vị là chế định được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật, xây dựng trên nền tảng đạo đức xã hội và quan hệ huyết thống. Trong gia đình, con cái có nghĩa vụ yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Khi con, cháu có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, ngược đãi, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng… đối với ông bà, cha mẹ, hành vi đó không những vi phạm quy định pháp luật mà còn trái đạo đức xã hội, không xứng đáng được nhận di sản (ở cả góc độ “quyền hưởng di sản”) mà ông bà, cha mẹ để lại. Vì thế, từ ví dụ trên, tác giả cho rằng, nhà làm luật cần áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 cho cả ba trường hợp, loại bỏ quyền thừa kế thế vị của người có hành vi vi phạm./.
Trả lời