Mục lục
Nâng cao hoạt động kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Thùy Dung [1]
TÓM TẮT
Luật cạnh tranh năm 2018 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2019) đã thể hiện rõ nét sự phát triển về mặt tư duy của các nhà lập pháp trong việc kết hợp giữa tư duy pháp lý và tư duy kinh tế, khắc phục được những nhược điểm của Luật cạnh tranh năm 2004 và tiệm cận được với hệ thống pháp luật cạnh tranh của các nước phát triển trên thế giới. Đặc biệt luật đã quy định cụ thể, chi tiết về thẩm quyền kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia ở các khía cạnh phát hiện, xử lý và áp dụng chế tài đối với các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, về mặt lý luận và thực tiễn thẩm quyền kiểm soát hoạt động cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Do đó Việt Nam cần thực hiện ngay các biện pháp nâng cao hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nói chung và thẩm quyền kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.
1. Đặt vấn đề
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, cũng như quan điểm lập pháp của các quốc gia phát triển trên thế giới, hành vi cạnh tranh không lành mạnh về bản chất là xâm phạm trực tiếp vào lợi ích tư (trực tiếp là lợi ích của doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng) tức là pháp luật cạnh tranh không lành mạnh được hình thành trên cơ sở tư duy của luật tư (về bản chất là biểu hiện cụ thể của hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng2. Trách nhiệm của chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự, Nhà nước không có trách nhiệm phải đứng ra giải quyết tranh chấp khi hành vi đó không xâm phạm đến trật tự công cộng chung. Do vậy, Nhà nước không cần thiết phải tổ chức một cơ quan kiểm soát cạnh tranh chuyên trách với chức năng xác định, xử lý và áp dụng biện pháp chế tài hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà thị trường tự vận hành thông qua sự kiểm soát lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh3. Có lẽ vì lý do đó, mà các nước quốc gia Châu Âu coi pháp luật cạnh tranh không lành mạnh là chế định cơ bản của pháp luật kinh tế hoặc pháp luật dân sự, khi xử lý hành vi sẽ áp dụng các biện pháp chế tài dân sự theo nguyên tắc “không có đơn kiện không có Tòa án”4.
Tại Việt Nam, theo quy định của Luật cạnh tranh (LCT) năm 2004, Cục Quản lý Cạnh tranh có thẩm quyền điều tra (tiếp nhận đơn khiếu nại, thu thập chứng cứ) và ban hành quyết định xử lý hành vi cùng chế tài áp dụng đối với chủ thể có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Với những chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan cạnh tranh tổ chức theo LCT năm 2004 đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tính đến hết năm 2018, cơ quan cạnh tranh đã tiếp nhận gần 860 hồ sơ khiếu nại, trong đó hơn 200 vụ đã được điều tra, xử lý. Thông qua xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã thu về ngân sách nhà nước tổng số tiền phạt và chi phí xử lý đáng kể. Nếu năm 2007, tổng số tiền phạt mới chỉ là 85 triệu đồng, thì năm 2008, tổng số tiền phạt đã tăng lên gần gấp 10 lần (khoảng 805 triệu đồng), và đến năm 2016 là 2,114 tỷ đồng5. Tuy nhiên về mặt lý luận và thực tiễn cơ quan cạnh tranh đã tồn tại nhiều bất cập, hạn chế đòi hỏi phải xây dựng mô hình cơ quan kiểm soát cạnh tranh mới.
2. Thực trạng quy định về thẩm quyền kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia theo Luật cạnh tranh năm 2018
Để khắc phục những hạn chế và bất cập từ LCT năm 2004, LCT năm 2018 đã thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trên cơ sở thống nhất trong vai trò điều tra và xét xử, thống nhất tổ chức dựa trên sát nhập Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, Hội đồng Cạnh tranh và Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh. Để thực hiện thẩm quyền kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh, luật đã quy định cụ thể về địa vị pháp lý; chức năng và quyền hạn; cơ cấu và tổ chức của Ủy ban Cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, về địa vị pháp lý: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan thuộc Bộ Công Thương. Quy định này của Việt Nam khá tương đồng với mô hình cơ quan cạnh tranh trực thuộc bộ, ngành của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng thời xuất phát từ những thành tựu đã được ghi nhận của Cục quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương trước đó. Hơn nữa, việc thực hiện thành lập một cơ quan cạnh tranh độc lập với bộ/ngành sẽ không phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 39- NQ/TW ngày 17/04/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, về cơ cấu, tổ chức: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các thành viên. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có tối đa 15 thành viên là công chức của Bộ Công thương, các bộ, ngành có liên quan, các chuyên gia và nhà khoa học do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương, hoạt động theo nhiệm kỳ 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại6. Với tổ chức như vậy sẽ đảm bảo Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và từng thành viên của cơ quan này hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, không bị can thiệp về chính trị kể cả Bộ trưởng Bộ Công thương
Thứ ba, về chức năng và quyền hạn: Khác với cơ quan quản lý hành chính nhà nước khác, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan hành chính bán tư pháp, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh; vừa tiến hành tố tụng cạnh tranh, kiểm soát tập trung kinh tế, quyết định việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trong đó có vụ việc cạnh tranh không lành mạnh7.
Quy trình xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh được LCT năm 2018 quy định chi tiết, cụ thể như sau:
+ Gửi hồ sơ khiếu nại vụ việc: Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu được thực hiện, doanh nghiệp gửi hồ sơ khiếu nại (bao gồm các chứng cứ, các thông tin liên quan đến vụ việc) lên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia để bảo vệ quyền lợi của mình8.
+ Tiếp nhận và giải quyết vụ việc: Nếu hồ sơ hợp pháp, trong thời hạn 07 ngày, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thông báo tiếp nhận hồ sơ hoặc ra thông báo bổ sung hồ sơ vụ việc. Đối với hồ sơ không đủ điều kiện về thời hiệu, thẩm quyền giải quyết hoặc không bổ sung hồ sơ theo thời hạn quy định, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trả lại hồ sơ vụ việc9.
+ Ban hành quyết định điều tra vụ việc: Đối với hồ sơ hợp đồng thời thực hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra vụ việc. Thời hạn điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu là 60 ngày kể từ ngày ra quyết định. Đối với vụ việc phức tạp được gia hạn 01 lần là 45 ngày10.
+ Điều tra vụ việc: Thực hiện lấy lời khai và triệu tập người làm chứng. Kết thúc quá trình điều tra, điều tra viên lập báo cáo điều tra và trình Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Thủ trưởng cơ quan điều tra kết luận điều tra và chuyển hồ sơ vụ việc, báo cáo điều tra và kết luận đến Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh để ban hành Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo quy trình riêng tại điều 90. Hoặc ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định tại Điều 92.
+ Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và thi hành quyết định: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nếu doanh nghiệp không có khiếu nại quyết định xử lý vụ việc thì áp dụng thi hành. Sau 15 ngày kể từ ngày quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì bên được thi hành, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định. Trường hợp quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành thì Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định. Theo quy định tại Điều 5 của Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành án đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng cạnh tranh.
Đối với từng hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tùy vào mức độ thiệt hại, tính chất vụ việc mà cá nhân, pháp nhân bị áp dụng các chế tài hành chính như sau:
+ Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh: Trong quá trình tố tụng điều tra, để ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính như: Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Khám phương tiện vận tải, đồ vật; Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm. Hiện nay, Chính phủ đang trong quá trình soạn thảo ban hành quy định trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh.
+ Phạt tiền: Là hình phạt chính trong xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu. LCT năm 2018 đã tăng mức phạt tối đa lên 2 tỷ đồng nhằm tăng tính răn đe của chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
+ Hình phạt bổ sung: Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm; Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm.
+ Hình phạt khắc phục hậu quả: Các hình thức phạt khắc phục hậu quả bao gồm: Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm và tiêu hủy yếu tố vi phạm; Buộc tiêu hủy hàng hóa vi phạm nếu không loại bỏ được yếu tố vi phạm; Buộc loại bỏ thông tin về hàng hóa, dịch vụ vi phạm trên phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, trang tin điện tử; Buộc thay đổi tên doanh nghiệp, loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp; Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm…
Chúng ta có thể thấy, quan điểm lập pháp của Việt Nam có sự khác biệt so với pháp luật các nước trên thế giới, tuy đã xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm trực tiếp lợi ích của doanh nghiệp (lợi ích tư) nhưng pháp luật cạnh tranh không lành mạnh vẫn được coi là công cụ của nhà nước nhằm tạo lập, duy trì và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường; đảm bảo và tăng cường khả năng thực thi pháp luật trên thực tiễn thông qua việc yêu cầu các doanh nghiệp phải tuân thủ những nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quá thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh. Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh không chỉ bảo vệ doanh nghiệp trực tiếp bị hành vi xâm phạm, mà còn hướng tới bảo vệ môi trường cạnh tranh (trật tự tự kinh tế chung và được điều chỉnh bởi luật công). Do đó, Nhà nước phải tổ chức một cơ quan kiểm soát cạnh
tranh chuyên trách (Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia) và áp dụng luật công trong việc phát hiện, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh bằng biện pháp và chế tài hành chính.
3. Một số tồn tại, hạn chế
Mặc dù, LCT năm 2018 đã tổ chức mô hình cơ quan cạnh tranh thống nhất với nhiều chức năng ưu việt đáp ứng được cả yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật đối với thẩm quyền kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban cạnh tranh nói riêng và cơ cấu, tổ chức cơ quan cạnh tranh của Việt Nam nói chung vẫn đang tồn tại một số hạn chế sau:
Thứ nhất, về tính độc lập của Ủy ban Cạnh tranh còn hạn chế
Về nguyên tắc, vụ việc cạnh tranh không lành mạnh được xác định là xâm phạm về quyền lợi tư và phải được giải quyết trên cơ sở pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do đặc thù của lĩnh vực nên khi xét xử vụ việc cạnh tranh không lành mạnh có những yêu cầu đặc biệt đối với cơ quan có thẩm quyền xét xử vừa có chức năng như một cơ quan tư pháp, vừa có chức năng như một cơ quan hành chính, đồng thời đối với các thành viên trong hội đồng xét xử cần có chuyên môn về tố tụng, chuyên môn về kinh tế vĩ mô, chuyên môn về đối tượng bị xâm phạm (như chuyên môn về các đối tượng của sở hữu công nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng, viễn thông, tên miền. Có thể thấy, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trực thuộc Bộ Công thương vừa có nhiệm vụ quản lý về cạnh tranh, tiến hành tố tụng cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Mặc dù đã có sự thống nhất trong cơ quan cạnh tranh, nhưng về bản chất, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia bị phụ thuộc vào Bộ Công thương về cơ cấu vận hành, về tổ chức và đặc biệt là về tài chính.
Theo Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18/08/2017 của Chính phủ quy định thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại trong đó có chức năng quản lý cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phòng vệ thương mại. Trong khi hoạt động cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh diễn ra ở tất cả các lĩnh vực khác nhau không chỉ riêng trong lĩnh vực công thương, nên để một cơ quan trực thuộc Bộ Công thương thực hiện quản lý cạnh tranh và tố tụng cạnh tranh là không hợp lý.
Ngoài việc quản lý các ngành kinh tế thuộc lĩnh vực công thương, Bộ Công thương còn là cổ đông của nhiều tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước đồng thời có vai trò “tăng cường hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thị trường trong nước, và tăng cường năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường quốc tế”11. Như vậy, trong hoạt động kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh sẽ có xu hướng “thiên vị” hoặc “nương tay” với các doanh nghiệp do Bộ Công thương quản lý hoặc doanh nghiệp nhà nước so với các doanh nghiệp tư nhân khác.
Thứ hai, trình tự, thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn nhiều bất cập, chồng chéo.
– Quy tắc xung đột lợi ích chưa hợp lý: Theo Điều 65 LCT năm 2018, điều tra viên vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, thư ký phiên điều trần phải từ chối tiến hành tố tụng cạnh tranh hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Là người thân thích với bên bị điều tra hoặc bên khiếu nại; là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc cạnh tranh; có căn cứ rõ ràng cho rằng họ không khách quan khi làm nhiệm vụ. Tuy nhiên, lại không quy định quy tắc xung đột lợi ích sẽ áp dụng với tất cả các thành viên của Hội đồng xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các thành viên khác có liên quan. Bởi quy trình tố tụng cạnh tranh bao gồm nhiều bước và liên quan đến nhiều thành viên, mỗi quyết định của một thành viên có liên quan sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoặc một phần nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy, nếu chỉ quy định quy tắc xung đột lợi ích cho điều tra viên vụ việc, thư ký phiên điều trần là chưa đầy đủ và hợp lý bởi tất cả các thành viên khi tham gia tố tụng cạnh tranh đều cần đảm bảo tính khách quan, độc lập để không ảnh hưởng đến kết quả xử lý vụ việc.
– Quá trình tiến hành điều tra và phải dựa trên nội dung điều tra chính thức, tức là vừa phải tuân theo thủ tục tố tụng cạnh tranh vừa tuân theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính theo luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 dẫn đến việc chồng chéo trong quá trình trình thực hiện.
– Thẩm quyền xử phạt hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh mâu thuẫn với luật chuyên ngành: Theo quy định của LCT năm 2018 quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp xử phạt hành hành chính thuộc Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Tuy nhiên đối với mỗi lĩnh vực chuyên ngành khác nhau ngoài Ủy ban cạnh tranh còn Bộ, ngành và cơ quan quản lý nhà nước các cấp được có thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Ví dụ: Như đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu, theo Nghị định số 99/2013/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm thuộc về Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Thanh tra Thông tin và Truyền thông, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có thẩm quyền xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu xảy ra tại địa phương theo nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38 và Điều 52 Luật xử lý vi phạm hành chính.
– Hoạt động thi hành quyết định xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh còn nhiều bất cập: Việc thi hành quyết định xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia theo LCT năm 2018 mâu thuẫn với cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; Quy định về điều kiện thi hành án dân sự đối với quyết định của Luật thi hành án dân sự năm 2014 thiếu quy định về điều kiện liên quan đến tài sản. Đồng thời Luật thi hành án dân sự năm 2014 hiện chưa có những quy định hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục tổ chức thi hành các chế tài hành chính trong quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh do đó thiếu một cơ chế pháp lý đầy đủ để các cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thể thực hiện.
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia Việt Nam
Việc quy định Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trực thuộc Bộ Công thương tồn tại nhiều bất cập mà về mặt lý luận và thực tiễn đã chứng minh rõ. Tuy nhiên, hiện nay LCT năm 2018 đang trong quá trình triển khai thực hiện, việc sửa đổi luật cũng như thay đổi địa vị pháp lý của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trực thuộc Chính phủ là giải pháp lâu dài. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh nói riêng, trước mắt phải thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ chế đảm bảo trong hoạt động Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia chỉ tuân theo pháp luật và hạn chế sự tác động của các cơ quan nhà nước vào quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Do vậy, để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động điều tra các vụ việc cạnh tranh trong đó có vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh cần được quy định có tư cách pháp nhân và được sử dụng con dấu riêng để thực hiện nhiệm vụ (tương đương cấp Cục).
Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và Tòa án. Trong hoạt động xét xử vụ việc cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh nói riêng, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cần đảm bảo đúng vai trò tiên quyết giải quyết vụ việc trên cơ sở xác định hành vi vi phạm, áp dụng các biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm bằng biện pháp hành chính (nếu có). Trong trường hợp có thiệt hại xảy ra, doanh nghiệp có thể khởi kiện vụ việc ra Tòa án yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh sẽ là cơ sở để Tòa án xác định hành vi của chủ thể và giải quyết tranh chấp về việc yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, đảm bảo tính minh bạch: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có quy chế về việc công khai quy trình xử lý và quá trình xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo đúng quy định của LCT năm 2018 và Luật tiếp cận thông tin năm 2016.
Thứ tư, đảm bảo về nguồn lực tài chính: Quy định cụ thể về ngân sách hoạt động phù hợp với chức năng “hành chính – bán tư pháp” vừa là cơ quan quản lý nhà nước vừa là cơ quan thực hiện hoạt động tố tụng cạnh tranh; Quy định về mức hỗ trợ kinh phí đối với hoạt động điều tra vụ việc cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh nói riêng; Bổ sung kinh phí cho hoạt động rà soát văn bản quy phạm pháp luật đối với các văn bản liên quan đến pháp luật cạnh tranh.
Thứ năm, đảm bảo nguồn lực về nhân sự: Việc thực hiện sắp xếp, điều chuyển biên chế cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cần đảm bảo về năng lực chuyên môn (có kiến thức chuyên sâu về pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn về các hoạt động kinh tế thương mại, am hiểu về lĩnh vực chuyên môn…). Xem xét bổ sung số lượng nhân sự nhất định cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, đặc biệt cho các cơ quan liên quan đến hoạt động xét xử các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh nguồn nhân sự am hiểu về kiến thức thực tiễn trong hoạt động kinh doanh, thương mại cũng như kỹ năng, chuyên môn trong hoạt động tố tụng cạnh tranh. Đồng thời, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cần có kế hoạch đào tạo cán bộ có trình độ chuyên sâu về chuyên môn như sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu, công nghệ thông tin… để đảm bảo được trình độ chuyên môn trong xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến các đối tượng cụ thể.
5. Kết luận
Đối với thẩm quyền kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Quốc gia đã được Luật cạnh tranh quy định khá đầy đủ trong việc xác định hành vi vi phạm, áp dụng biện pháp kiểm soát hành vi, áp dụng chế tài đối với hành vi vi phạm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về mặt lập pháp, thực tiễn thực thi pháp luật cho thấy, hiệu quả hoạt động kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh của Ủy ban Quốc gia còn thấp. Số lượng các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu được đưa ra xử lý còn rất khiêm tốn, chưa tưng xứng với thực trạng các hành vi vi phạm xảy ra phổ biến như hiện nay. LCT năm 2018 đã có nhiều thay đổi mang tính ưu việt, tuy nhiên, vẫn được xây dựng trên cơ sở tư duy của luật công và mang nặng tính chất hành chính đối với hành vi được xác định là xâm phạm quyền lợi tư. LCT năm 2018 hiện nay đang trong quá trình triển khai các văn bản hướng dẫn thi hành, một số tồn tại, hạn chế từ LCT năm 2004 được coi là nguyên nhân dẫn đến tính khả thi của Luật còn thấp nhưng vẫn được kế thừa mà chưa có các quy định hợp lý để khắc phục./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, NCS, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Xem Bùi Nguyên Khánh (2007), Chức năng của luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên cứu so sánh giữa pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam và CHLB Đức; Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2007, Số 10 (234), tr.46-50.
- Xem Bùi Nguyên Khánh (2007), Chức năng của luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên cứu so sánh giữa pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam và CHLB Đức; Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2007, Số 10 (234), tr.46-50.
- Xem Nguyễn Như Phát (2006), Đưa pháp luật cạnh tranh vào cuộc sống, Tạp chí Luật học 8/2006, Hà Nội.
- Xem Nguyễn Hoàn Hảo (2019), Giải pháp hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Tài chính tháng 10/2019, Hà Nội.
- Xem Điều 46, Luật cạnh tranh năm 2018.
- Xem Điều 46, Luật cạnh tranh năm 2018.
- Xem Điều 77, Luật cạnh tranh năm 2018.
- Xem Điều 78, Luật cạnh tranh năm 2018.
- Xem Điều 80, 81, Luật cạnh tranh năm 2018.
- Phan Công Thanh (2015), Tình hình thực thi Luật cạnh tranh của Việt Nam và Sự cần thiết của Cạnh tranh minh bạch trong khu vực, Loạt bài Tham luận Chính sách, tháng 12/2015.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Hoàn Hảo (2019), Giải pháp hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Tài chính tháng 10/2019, Hà Nội.
- Đặng Vũ Huân (2002), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Đặng Vũ Huân, Nguyễn Thùy Dung (2016), Áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số tháng 8/2016.
- Bùi Nguyên Khánh (2007), Chức năng của luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên cứu so sánh giữa pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam và CHLB Đức; Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2007, Số 10 (234), tr.46-50
- Nguyễn Như Phát (2006), Đưa pháp luật cạnh tranh vào cuộc sống, Tạp chí Luật học 8/2006, Hà Nội.
- Phan Công Thanh (2015), Tình hình thực thi Luật cạnh tranh của Việt Nam và Sự cần thiết của Cạnh tranh minh bạch trong khu vực, Loạt bài Tham luận chính sách, tháng 12/2015.
Trả lời