Mục lục
Phân loại việc thi hành án dân sự – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Hoàng Thị Thanh Hoa [1]
TÓM TẮT
Phân loại việc thi hành án dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thủ tục tổ chức thi hành án. Phân loại chính xác việc thi hành án không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án mà còn làm cơ sở cho việc hoàn thiện chế độ thống kê, báo cáo trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên, hiện nay công tác phân loại việc thi hành án vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phân loại việc thi hành án dân sự và đề xuất một số giải pháp liên quan, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác này.
1. Khái niệm “phân loại việc thi hành án”
“Phân loại” là khái niệm được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Phân loại là dựa vào tiêu chí, những dấu hiệu giống nhau và khác nhau để phân chia, sắp xếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội theo một trật tự nhất định2. Theo đó, có thể hiểu, “Phân loại việc thi hành án dân sự” là dựa vào các căn cứ và tiêu chí nhất định để phân chia, sắp xếp các việc thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là THADS) có cùng tính chất giống nhau vào cùng một nhóm (loại).
Về căn cứ pháp lý, Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS) và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định cụ thể về các tiêu chí chung để phân loại từng việc THADS. Cách phân loại việc THADS được xác định căn cứ vào một số điều luật liên quan, cụ thể như: Điều 1; Điều 3, Điều 36; Điều 44a Luật THADS.
Khoản 9 Điều 3 Luật THADS quy định: “Mỗi quyết định thi hành án là một việc thi hành án”. Quy định mới này được bổ sung từ Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, theo đó, cách xác định “việc thi hành án” được dựa trên quyết định thi hành án. Mỗi Quyết định thi hành án là một văn bản do Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền ban hành để thi hành một hoặc nhiều khoản của những bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS, làm căn cứ cho Chấp hành viên lập hồ sơ và tổ chức việc thi hành án, nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào việc thi hành án3.
Tùy theo trường hợp thi hành án chủ động hoặc theo yêu cầu mà số lượng quyết định thi hành án được ban hành lại khác nhau, ví dụ: Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) quy định: Thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết định thi hành án chung đối với các khoản thuộc diện chủ động thi hành trong một bản án, quyết định, trừ các trường hợp: Có người được trả lại tiền, tài sản thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó; có người phải thi hành nhiều khoản khác nhau thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó; một người vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ thì ra một quyết định thi hành án đối với người đó; Trường hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới…4. Đối với trường hợp thi hành án theo yêu cầu thì thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết định thi hành án cho mỗi yêu cầu thi hành án. Trường hợp trong bản án, quyết định có một người phải thi hành án cho nhiều người và các đương sự yêu cầu thi hành án vào cùng thời điểm thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết định thi hành án chung cho nhiều yêu cầu. Trường hợp nhiều người được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận chung một khoản tiền theo bản án, quyết định, nhưng chỉ có một hoặc một số người có yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án theo đúng nội dung bản án, quyết định. Như vậy, số lượng quyết định thi hành án không đồng nhất với số lượng bản án, quyết định của Tòa án được cơ quan THADS tiếp nhận. Khi cùng một vụ việc đã được xét xử và sau đó chuyển sang cho cơ quan THADS tổ chức thi hành, rất khó để so sánh số bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác chuyển sang là nhiều hơn hay ít hơn số quyết định thi hành án.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật THADS, việc THADS được thống kê tương ứng với số lượng quyết định thi hành án.
2. Ý nghĩa của phân loại việc thi hành án dân sự
Bên cạnh các trình tự, thủ tục chung, việc thi hành án chủ động hoặc theo yêu cầu khi tổ chức thi hành án cũng có những đặc thù riêng, do đó phân loại việc thi hành án có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo thi hành án theo đúng trình tự, quy định của pháp luật. Ví dụ: về định giá tài sản kê biên, Điều 98 Luật THADS quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:… Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại Khoản 1 Điều 36 của Luật này5 (thuộc trường hợp chủ động thi hành án)”. Theo đó, đối với việc thi hành án chủ động (một bên chủ thể đại diện cho nhà nước), thì chấp hành viên chủ động ký hợp đồng định giá tài sản thi hành án mà không căn cứ theo sự thỏa thuận của các đương sự.
Phân loại việc thi hành án tạo thuận lợi trong công tác thống kê, báo cáo kết quả công tác THADS. Đảm bảo việc phân chia tỷ lệ, giao chỉ tiêu thi hành án cho các cơ quan THADS một cách khoa học và phù hợp, đồng thời đây là một trong những căn cứ thiết lập các tiêu chí đánh giá kết quả thi hành án của Chấp hành viên.
Mặt khác, trên cơ sở phân loại án/việc (việc thi hành án trọng điểm; việc thi hành án phức tạp; việc thi hành các vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo,…) các cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS có thể tìm ra các giải pháp thi hành hiệu quả hơn đối với từng loại việc này.
3. Tiêu chí phân loại việc thi hành án dân sự
Trong hoạt động quản lý nhà nước, công tác thống kê, phân loại luôn đóng vai trò quan trọng, các thông tin thống kê với nội dung trung thực, khách quan, chính xác… được xem là “tấm gương” phản ánh kịp thời, trung thực hiệu quả công việc của cơ quan, tổ chức. Đối với hoạt động THADS, thông kê THADS là hoạt động thu thập, báo cáo, tổng hợp, phân tích và công bố các thông tin phản ánh tính chất, quy luật vận động, phát triển của kết quả hoạt động THADS trong khoảng thời gian, không gian cụ thể, do cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và Chấp hành viên thực hiện6. Việc phân loại việc thi hành án được dựa trên các cơ sở khác nhau, có thể kể đến một số cách phân loại cơ bản như sau:
3.1. Theo tính chất của khoản phải thi hành án
Đây là cách phân loại mang tính truyền thống và phổ biến nhất trong phân loại việc THADS. Từ Pháp lệnh THADS năm 1989 (Điều 14, 15),
Pháp lệnh THADS năm 1993 (Điều 19, Điều 20); Pháp lệnh THADS năm 2004 (Điều 22) Luật THADS năm 2008 và đến Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Điều 36) đều kế thừa và sử dụng cách phân loại này.
Dựa theo loại quyết định thi hành án (chủ động hay theo yêu cầu)7, việc thi hành án được phân loại thành việc thi hành án chủ động và việc thi hành án theo yêu cầu. Theo đó, việc thi hành án chủ động sẽ bao gồm các việc thi hành án liên quan đến các khoản được liệt kê tại Khoản 2 Điều 36 Luật THADS và Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (đã được bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) bao gồm: hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho nhà nước. Các khoản thu khác cho nhà nước được hướng dẫn cụ thể tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP), bao gồm:
– Khoản truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước; khoản bồi thường cho Nhà nước, cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng; khoản thu nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước: Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
Có thể thấy, các việc thi hành án chủ động thường là các việc thi hành án liên quan đến các khoản thi hành án bảo đảm cho lợi ích của nhà nước (lợi ích công cộng) và những khoản trả lại tiền, tài sản cho công dân. Đây là các khoản cơ quan THADS phải có trách nhiệm chủ động tổ chức thi hành, không cần phải có yêu cầu từ phía đương sự. Một trong những đặc điểm riêng của việc thi hành án chủ động là Luật THADS không quy định thời hiệu thi hành án cho các loại việc thi hành án chủ động, thời hiệu thi hành án chỉ áp dụng đối với các trường hợp thi hành án theo yêu cầu. Ưu điểm của việc phân loại các việc thi hành án chủ động là làm rõ được trách nhiệm chủ động của các cơ quan tố tụng, cơ quan thi hành án trong việc chuyển giao bản án, quyết định, kiểm sát việc chuyển giao bản án, quyết định; miễn giảm nghĩa vụ thi hành án và tổ chức thi hành các loại việc THADS này. Đối với việc thi hành án chủ động, không cần có yêu cầu của đương sự, cơ quan THADS vẫn phải có trách nhiệm tổ chức thi hành. Còn đối với việc thi hành án theo yêu cầu thì việc tổ chức thi hành án được thực hiện theo yêu cầu của đương sự.
Theo Khoản 1 Điều 36 Luật THADS ngoài các trường hợp đã được liệt kê tại Khoản 2 Điều 36 Luật THADS, tất cả các khoản còn lại trong các bản án, quyết định đều thuộc diện thi hành án theo yêu cầu, tức là phải có yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, người phải thi hành án thì cơ quan THADS mới ra quyết định thi hành án. Việc thi hành án theo yêu cầu được xác định theo quyết định thi hành án theo yêu cầu được ban hành.
Phân loại việc THADS chủ động và theo yêu cầu là cách phân loại chính trong thống kê, phân loại việc THADS. Tuy nhiên, cách phân loại này vẫn còn một số hạn chế nhất định như:
Một là, việc phân loại các khoản thi hành án chủ động hiện nay vẫn được thực hiện theo phương pháp liệt kê, điều này dẫn đến việc nếu trong thực tế có phát sinh các khoản phải thi hành án nằm ngoài các khoản phải thi hành án chủ động theo luật định thì sẽ thiếu căn cứ để áp dụng. Ví dụ: Tại Điều 36 Luật THADS năm 2008 liệt kê các khoản thuộc diện chủ động thi hành án bao gồm: “… Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí” tuy nhiên, theo Pháp lệnh án phí lệ phí tòa án số 10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 trước đây và hiện nay là Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 20/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án thì ngoài án phí còn có cả lệ phí tòa án. Do đó, khi Luật THADS năm 2008 quy định liệt kê thiếu khoản “lệ phí tòa án” dẫn đến khi áp dụng, cơ quan THADS thiếu căn cứ để xử lý8.
Hai là, thực tế hiện nay loại việc phải thi hành án chủ động của cơ quan THADS là rất lớn. Bao gồm tất cả các loại hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản… của các vụ án hình sự, hành chính, lao động, kinh tế, hôn nhân gia đình đến Quyết định giải quyết phá sản…Trong khi đó số lượng cán bộ các cơ quan thi hành án còn ít, biên chế ngày càng giảm, các quy định pháp luật để nhằm phát huy quyền lực và tính chủ động của chấp hành viên trong tổ chức thi hành án còn hạn chế9. Do đó, đa số ý kiến cho rằng, với một số lượng việc thi hành án khổng lồ ngày càng phát sinh nhiều cả về việc và tiền như hiện nay thì cần xem xét lại cách phân loại việc thi hành án chủ động. Việc xếp loại tất cả các khoản phải thi hành nói trên vào việc thi hành án chủ động liệu đã thực sự hợp lý? Và cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án đối với cả hai loại việc gồm loại việc chủ động và loại việc theo yêu cầu để rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án mà vẫn đảm bảo hiệu quả, tránh lãng phí thời gian, nhân lực, tiền bạc của nhà nước.
Ba là, Cơ quan THADS hiện phải chịu trách nhiệm rất lớn về việc thi hành các khoản thi hành án chủ động. Cơ quan THADS gần như được “mặc định” một chức năng là thi hành các khoản thu nộp cho ngân sách nhà nước, phục vụ lợi ích công cộng và phải chịu trách nhiệm về các khoản thi hành này trong khi có rất nhiều vấn đề phát sinh khách quan khi thi hành án như: người phải thi hành án không rõ địa chỉ, không có tài sản, điều kiện thi hành án, có tài sản nhưng không thể xử lý được…dẫn đến việc thi hành án tồn đọng, ảnh hưởng đến chỉ tiêu công tác của các cơ quan THADS. Trong khi đó thẩm quyền xét miễn giảm các khoản thu, nộp ngân sách nhà nước lại thuộc thẩm quyền của Tòa án10. Thực tế, Tòa án không phải là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành án, việc xem xét hồ sơ miễn, giảm thi hành án của Tòa án vẫn mang nhiều tính hình thức, thủ tục, chưa thực sự hiệu quả. Do đó, nên chăng xem xét quy định chuyển thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước cho cơ quan THADS. Việc này sẽ giảm bớt các trình tự, thủ tục hành chính khi phải chuyển hồ sơ sang Tòa án để xét miễn, giảm thi hành án đối với các khoản nộp ngân sách nhà nước.
Bốn là, Luật THADS hiện hành lấy Chấp hành viên THADS làm trung tâm của hoạt động thi hành án, cả trong lĩnh vực thi hành án chủ động và theo yêu cầu. Điều này phần nào cũng gây nên sự quá tải trong công việc đối với các chấp hành viên và cơ quan THADS. Đa số ý kiến cho rằng, cần có sự phân định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên đối với từng bước tác nghiệp cụ thể theo loại việc thi hành án. Ví dụ, về trách nhiệm xác minh, Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã sửa đổi quy định về chủ thể thực hiện xác minh điều kiện thi hành án theo hướng xác minh tài sản là quyền của người được thi hành án, không phải nghĩa vụ của họ, trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án thuộc về chấp hành viên. Điều này, mặc dù có những ưu điểm nhất định, khắc phục những bất cập của Luật THADS năm 2008, nhưng chấp hành viên không thể có động lực xác minh bằng người được thi hành án, nên hiệu quả của việc xác minh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự mẫn cán, nhiệt tình của mỗi chấp hành viên… Trên thực tế, thời gian thực hiện công tác xác minh của chấp hành viên trung bình chiếm đến quá nửa thời gian của một hồ sơ kể từ khi được Thủ trưởng cơ quan THADS giao đến khi kết thúc hồ sơ, chưa kể đối với hồ sơ cần phải áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế có huy động lực lượng lớn tham gia thì thời gian và các nội dung xác minh càng đa dạng và phức tạp hơn. Quy định chấp hành viên có nhiệm vụ xác minh đặt ra gánh nặng công việc quá tải đối với chấp hành viên, dẫn đến hiệu quả có thể không cao. Do đó, pháp luật cần có quy định trách nhiệm tiến hành xác minh bao gồm cả người được thi hành án và chấp hành viên, trong đó vẫn đề cao việc xác minh của người được thi hành án. Điều này cũng phù hợp với tính chất của việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự. Bởi vì THADS suy cho cùng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của chính bản thân người được thi hành án.
Bên cạnh đó, có những quy phạm pháp luật của Luật THADS là quyền hạn của chấp hành viên, nhưng văn bản hướng dẫn lại quy định như là một quyền hạn thuộc về trách nhiệm, nghĩa vụ, nhiệm vụ phải làm của chấp hành viên. THADS về xác minh điều kiện thi hành án thì: “Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình”. Quy phạm pháp luật nêu trên được hiểu đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của người phải thi hành án. Trong quá trình xác minh, chấp hành viên có quyền hướng dẫn hay không hướng dẫn người phải thi hành án kê khai về điều kiện thi hành án tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nội dung xác minh. Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP lại hướng dẫn: “khi tiến hành xác minh chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án…”. Như vậy, quyền yêu cầu của chấp hành viên trong trường hợp này lại biến thành nhiệm vụ, trách nhiệm của chấp hành viên. Trường hợp, chấp hành viên tổ chức xác minh mà bỏ qua trình tự, thủ tục yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án là vi phạm và rất dễ bị đương sự khiếu nại, người có thẩm quyền kết luận, kiến nghị vi phạm trình tự, thủ tục xác minh…
Do đó, cần có những nghiên cứu đầy đủ và toàn diện hơn đối với việc xác định các khoản chủ động thi hành án và các khoản thi hành án theo yêu cầu. Từ đó sẽ có cách định hướng, phân loại việc thi hành án phù hợp. Đây là một nội dung rất quan trọng, có thể tác động rất nhiều đến hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
3.2. Theo điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
Khoản 6 Điều 3 Luật THADS quy định: “Có điều kiện thi hành án” là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Theo điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, việc thi hành án được phân loại thành việc chưa có điều kiện và việc có điều kiện thi hành án.
Việc chưa có điều kiện thi hành án là các loại việc được thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, thuộc các trường hợp sau:
– Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án;
– Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác;
– Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng.
Theo đó, những việc thi hành án thuộc các trường hợp trên được phân loại thành việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành và thực hiện xác minh, ra sổ theo dõi riêng theo quy định tại Điều 44 Luật THADS; Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP). Theo số liệu thống kê của Tổng cục THADS11, năm 2019, số việc chưa có điều kiện thi hành trong cả nước là trên 222.000 việc (chiếm 23% trên tổng số việc phải thi hành), tương ứng với số tiền trên 102 nghìn tỷ đông (chiếm 40% trên tổng số tiền phải thi hành). Phân loại việc chưa có điều kiện thi hành án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, việc phân loại việc chưa có điều kiện thi hành án trong thực tiễn đòi hỏi độ chính xác rất cao và trình tự thủ tục rất chặt chẽ.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, TAND, công tác thi hành án năm 2016 và những năm tiếp theo giao Chính phủ là “chú trọng việc xác minh, phân loại chính xác, đúng pháp luật án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành”. Trong công tác THADS, việc phân loại án chính xác (có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành) có ý nghĩa rất quan trọng và hết sức cần thiết để Chấp hành viên cơ quan THADS lập kế hoạch công tác, bảo đảm việc THADS được kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật; đồng thời, để phục vụ công tác quản lý, nâng cao trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc tuân thủ các quy định pháp luật. Mặt khác, bảo đảm chính xác số liệu thống kê thi hành án, phản ánh thực chất kết quả, hiệu quả công tác THADS; là cơ sở để công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành theo quy định từ Điều 3 đến Điều 6 Thông tư 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS.
Tuy nhiên, quy định về phân loại việc thi hành án chưa có điều kiện theo tiêu chí này cũng cần tiếp tục được hoàn thiện, cụ thể:
Một là, về tiêu chí xác định việc chưa có điều kiện thi hành án. Quy định của Luật THADS cần mở rộng hơn về tiêu chí xác định việc chưa có điều kiện thi hành án vì trong thực tế, có rất nhiều trường hợp khác ngoài các trường hợp được quy định tại Điều 44a Luật THADS mà cơ quan THADS không thể xử lý tài sản nhưng cũng không thể phân loại án sang dạng án chưa có điều kiện thi hành. Thực tế có các trường hợp như: Người phải thi hành án có tài sản là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất nhưng đất mà người đó đang sử dụng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; có nhà xây trên thửa đất lấn chiếm, đất hành lang giao thông, hành lang sông hoặc hành lang bảo vệ công trình thủy; người phải thi hành án có nhà ở nhưng nhà ở đó nằm trên đất của người khác và người có quyền sử dụng đất không đồng ý kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó để thi hành án trong khi không thể tách rời nhà và đất… Theo quy định tại Điều 44a Luật THADS thì các căn cứ để ra quyết định chưa có điều kiện thi hành án không bao gồm những trường hợp mặc dù người phải thi hành án có điều kiện thi hành (có tài sản) nhưng lại bế tắc trong việc xử lý tài sản.
Hai là, cần có phương án xử lý đối với những vụ việc chưa có điều kiện thi hành đã kéo dài nhưng không thể xét miễn, giảm. Thực tế việc thực hiện xác minh điều kiện thi hành án đối với một số việc chưa có điều kiện thi hành của cơ quan THADS cho thấy, có một số trường hợp chưa có điều kiện thi hành án đã 10 năm. Tuy nhiên, thực tế xác minh tại địa phương thì phát hiện đối tượng đã không có mặt tại địa phương từ lâu, hiện không rõ địa chỉ cư trú. Cơ quan THADS vẫn phải duy trì trong sổ theo dõi qua nhiều năm mà không có căn cứ để xử lý vì không đủ điều kiện để xét miễn, giảm thi hành án theo quy định tại Điều 61 Luật THADS. Ví dụ: có trường hợp cơ quan THADS đã kê biên xử lý tài sản bán đấu giá, hạ giá nhiều lần nhưng vẫn không bán được tài sản (do giá trị tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế, cơ quan THADS đã giao lại cho người phải thi hành án theo Khoản 3 Điều 104 Luật THADS). Mặc dù đã hết thời hạn 10 năm, nhưng vẫn không thể thực hiện được việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án do các trường hợp trên vẫn thuộc diện “có tài sản” nên không thể phân loại chưa có điều kiện thi hành án theo Điều 44a Luật THADS. Do đó, cần bổ sung quy định về việc phân loại chưa có điều kiện thi hành án đối với những trường hợp có tài sản nhưng tài sản đó không thể xử lý được hoặc đã xử lý tài sản nhưng không hiệu quả.
Ba là, cần có sự phân biệt giữa việc thi hành án “chưa có điều kiện thi hành” và việc thi hành án“không có điều kiện thi hành”. Luật THADS chưa có quy định về loại án “không có điều kiện thi hành”. Trên thực tế, các việc đang được phân loại “chưa có điều kiện thi hành án” hiện nay đang bao gồm cả các vụ việc “không có điều kiện thi hành án” và việc chưa có điều kiện thi hành. Thực tiễn THADS cho thấy rất nhiều vụ việc thi hành án không thể có khả năng thi hành được như người phải thi hành án là người nước ngoài đã về nước không xác định được địa chỉ, nơi cư trú; người phải thi hành án là người già, neo đơn không nơi nương tựa, người ốm đau tàn tật, sống phụ thuộc vào người khác, không có khả năng thi hành nghĩa vụ… tồn đọng trong nhiều năm liền mà không thể thi hành được. Vì vậy, cần xem xét hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phân loại việc thi hành án một cách triệt để hơn, cần lượng hóa đối với loại án không có điều kiện thi hành, như thời hạn kéo dài là bao nhiêu năm thì là khó, không thi hành được hoặc những việc THADS chưa có điều kiện thi hành, đã tồn đọng nhiều năm, trong đó bao gồm cả các khoản thu nộp cho ngân sách chưa có điều kiện thi hành (thực tế là không có điều kiện hoặc không đáp ứng được điều kiện miễn, giảm)… để có phương án giải quyết dứt điểm đối với các loại việc này.
3.3. Theo loại bản án, quyết định phải thi hành
Một trong những cơ sở để phân loại việc THADS là dựa theo loại bản án, quyết định phải thi hành. Căn cứ theo Điều 1 Luật THADS và dựa trên cách xác định của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền thì bản án, quyết định được phân loại theo các lĩnh vực pháp luật, bao gồm: hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính, phá sản; bên cạnh đó là phán quyết của Trọng tài thương mại và Quyết định của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Theo Thông tư số 06/2019/TT-BTP ngày 21/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo thống kê THADS, theo dõi thi hành án hành chính; việc thi hành án được phân loại thành 13 loại, bao gồm: dân sự; kinh doanh, thương mại; tín dụng; dân sự trong hình sự (tội phạm chức vụ); dân sự trong hình sự (các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế); dân sự trong hình sự (khác); dân sự trong hành chính; hôn nhân và gia đình; lao động; phá sản; Trọng tài thương mại; vụ việc cạnh tranh; loại khác.
Tuy nhiên, cách phân loại này hiện nay vẫn bất cập do có một số khái niệm đang bị chồng chéo lẫn nhau. Ví dụ: việc thi hành án kinh doanh, thương mại, bao gồm các bản án, quyết định liên quan lĩnh vực kinh doanh, thương mại, trong đó bao gồm cả các bản án, quyết định về tín dụng, ngân hàng. Việc tách riêng án tín dụng- ngân hàng cũng gây khó khăn cho chấp hành viên trong việc xác định loại việc thi hành án.
3.4. Một số cách phân loại khác
Hiện cũng có cách phân loại việc thi hành án theo các nhóm việc cụ thể như: việc thi hành án kinh tế – tham nhũng, trong đó lại được phân chia thành: vụ̣ việc thi hành án tham nhũng thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo; vụ việc tham nhũng khác (Kế hoạch số 192-KH/BCĐTW ngày 04/9/2018 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp các cơ quan quản lý THADS thuận lợi trong việc phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, theo dõi kết quả thi hành án. Từ đó góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan; hoàn thiện tổ chức bộ máy, công tác tổ chức cán bộ và các công tác khác… nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS. Tuy nhiên, để công tác phân loại việc THADS được thực hiện có hệ thống và khoa học hơn, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này theo các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần thể chế hóa các quy định về phân loại việc THADS trong một văn bản pháp lý để thống nhất về tiêu chí phân loại từng loại việc thi hành án dân sự, xây dựng hành lang pháp lý, nền tảng lý luận để việc phân loại việc THADS được thực hiện chính xác, hiệu quả.
Thứ hai, Nghị quyết 48 NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định chủ trương: “từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án”. Đối với việc thi hành án chủ động và theo yêu cầu, cần có những đánh giá, tổng kết về hiệu quả thi hành án. Có thể xem xét chuyển một số loại việc thi hành án chủ động sang theo yêu cầu và có thê quy định cho Thừa phát lại thực hiện (ví dụ, như trả lại tiền, tài sản cho công dân…) để giảm tải cho các cơ quan THADS, đồng thời cũng phù hợp với xu hướng xã hội hóa công tác thi hành án dân sự. Thứ ba, ngoài các cách phân loại việc đã có các căn cứ pháp lý (như chủ động – theo yêu cầu; có điều kiện thi hành án – chưa có điều kiện thi hành án), các cách phân loại việc thi hành án dân sự khác như: theo loại bản án, quyết định; theo tính chất phức tạp, trọng điểm của việc thi hành án… cần hệ thống lại các khái niệm cơ bản và các tiêu chí phân loại việc thi hành án dân sự để thống nhất trong việc áp dụng trong toàn bộ hệ thống THADS.
Thống nhất cách xác định loại việc thi hành án theo những tiêu chí cụ thể sẽ tạo tiền đề lý luận để thống nhất cách phân loại việc thi hành án dân sự, từ đó góp phần hoàn thiện thể chế, các quy định pháp luật liên quan, góp phần đảm bảo việc tổ chức thi hành án hiệu quả, thiết thực và bền vững trong thời gian tới./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Chấp hành viên, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
- PGS.TS. Dương Văn Khảm, Ý nghĩa, tác dụng của khung phân loại tài liệu; https://hvtc.edu.vn/tabid/558/catid/ 143/id/17009/Y-nghia-tac-dung-cua-khung-phan-loai-tai-lieu/Default.aspx;
- Tổng cục THADS, (2017), Tài liệu tập huấn nghiệp vụ THADS, tr.4.
- Xem Điều 6, Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP.
- Khoản 2 Điều 36 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014.
- Nguyễn Đình Vĩnh, (2020) Hoàn thiện thể chế đối với công tác thống kê thi hành án dân sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số Chuyên đề Hoàn thiện thể chế Thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay, tr. 146-148.
- Điều 36 Luật THADS.
- Hiện nay Điều 36 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã bổ sung khoản “lệ phí” này.
- Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Đinh Duy Bằng; Phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên- góc nhìn từ quyền hạn; https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=908; ngày đăng: 23/10/2018.
- Điều 63 Luật THADS, việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) nơi cơ quan THADS đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở.
- https://thads.moj.gov.vn/noidung/thongbao/Lists/BaoCaoThongkeTongCuc/Attachments/225/12T%20viec,%20tien%202019.pdf
Trả lời