Mục lục
Bàn về chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài
Tác giả: Huỳnh Xuân Tình [1] & Hà Thái Thơ [2]
TÓM TẮT
Theo nguyên tắc của tố tụng trọng tài thì “phán quyết trọng tài là chung thẩm”, tức là có hiệu lực ngay kể từ ngày ban hành phán quyết. Tuy nhiên, vẫn có một cánh cửa để phá vỡ phán quyết trọng tài, đó là thủ tục hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án. Bài viết đề cập đến một trong những bất cập của phán quyết trọng tài theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM năm 2010) trong quá trình xét xử các vụ án tại Tòa án, đó là ai có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Thực tiễn cho thấy, một số quy định của pháp luật về vấn đề này còn tồn tại những bất cập, hạn chế cần được nghiên cứu hoàn thiện. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả phân tích, chỉ ra một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng quy định của pháp luật về chủ thể có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Từ đó đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
Tố tụng trọng tài được đảm bảo dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan và tuân theo pháp luật. Quá trình giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài được tiến hành công khai và phán quyết trọng tài là chung thẩm. Do vậy, tố tụng trọng tài thể hiện rất nhiều ưu điểm vượt trội như thủ tục tố tụng đơn giản hơn thủ tục tố tụng tại Tòa án, các bên được quyền lựa chọn trọng tài viên để giải quyết tranh chấp, đảm bảo tính bảo mật hơn so với tố tụng tại Tòa án nhưng phán quyết trọng tài không vì thế mà không mang tính hiệu lực cao thấp hơn so với bản án của Tòa án. Chính vì ưu điểm đó, tố tụng trọng tài ngày càng được các bên tranh chấp ưu liên lựa chọn để giải quyết, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, Luật TTTM năm 2010 vốn được xây dựng dựa trên nền tảng của Hiến pháp năm 1992 và những thành tựu kinh tế của nước ta thời điểm đó nên có rất nhiều nội dung đã không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi nhất định về chính sách kinh tế, quá trình hội nhập Việt Nam sâu rộng vào các nền kinh tế trên thế giới, cộng thêm việc cả thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm cho các mối quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp hơn. Đòi hỏi lĩnh vực pháp luật về kinh doanh – thương mại nói chung và tố tụng trọng tài nói riêng cần phải có sự thay đổi phù hợp. Cụ thể trong bài viết này đề cập đến một trong những bất cập của phán quyết trọng tài theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 trong quá trình xét xử các vụ án tại Tòa án, đó là ai có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài.
1. Quy định pháp luật về phán quyết trọng tài và các trường hợp huỷ phán quyết trọng tài
Theo quy định của Luật TTTM thì “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài3”. Có thể nói, phán quyết trọng tài là quyết định phân xử của Hội đồng trọng tài đối với yêu cầu giải quyết tranh chấp của các bên. Để có được phán quyết trọng tài, Hội đồng trọng tài phải thực hiện một quy trình tố tụng do Luật TTTM quy định.
Theo nguyên tắc của tố tụng trọng tài thì “phán quyết trọng tài là chung thẩm”4, tức là phán quyết trọng tài có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày ban hành phán quyết, không bị các đương sự kháng cáo và cũng không bị Viện Kiểm sát kháng nghị. Nói cách khác, phán quyết trọng tài sẽ không được xem xét theo trình tự thủ tục phúc thẩm hay giám đốc thẩm như việc Tòa án ban hành bản án, đây là điều khác biệt nhất giữa hai con đường giải quyết tranh chấp, một bên là Tòa án giải quyết tranh chấp theo Bộ luật tố tụng dân sự và một bên là trọng tài thương mại giải quyết theo quy định của Luật TTTM. Tuy nhiên, vẫn có một cách để phá vỡ phán quyết trọng tài, đó là thủ tục hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án.
Thủ tục hủy phán quyết trọng tài được thực hiện bởi yêu cầu đơn phương một bên gửi đến Tòa án. Thời hạn để thực hiện quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài. Trừ trường hợp vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Tuy nhiên, các bên tranh chấp phải có yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn luật định và người yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ chứng minh căn cứ theo Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010, tức là phán quyết trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
(b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật TTTM;
(c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
(d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì việc xác minh là của Tòa án.
Xét một cách tổng thể, các quy định của Luật TTTM được xây dựng nhằm hướng đến một mục tiêu là phán quyết trọng tài một khi được ban hành và có hiệu lực thì việc hủy phán quyết trọng tài là điều vô cùng khó khăn đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà không phải là đương sự trong vụ tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế việc quy định thủ tục phá vỡ phán quyết trọng tài một cách nghiêm ngặt, cứng nhắc đã tạo ra những vướng mắc nhất định trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án.
2. Những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về chủ thể có quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài
Khoản 1 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 quy định về căn cứ huỷ phán quyết trọng tài như sau: “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”.
Khoản 1 Điều 69 Luật TTTM năm 2010 quy định về quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài như sau: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp”.
Như vậy, về chủ thể có quyền yêu cầu nộp đơn hủy phán quyết trọng tài thương mại là một trong các bên tranh chấp. Theo Khoản 3 Điều 3 Luật TTTM năm 2010 quy định: “Các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị đơn”. Nói cách khác, theo quy định của pháp luật, chỉ có các bên tranh chấp mới được quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Quá trình xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại trên thực tế còn gặp một số bất cập, điều này có thể nhận thấy thông qua vụ án thực tiễn sau5:
Ngân hàng A khởi kiện ông B – Chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) với yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông B – Chủ DNTN trả cho Ngân hàng A số tiền nợ vay tổng cộng vốn và lãi là 54 tỉ đồng và tiếp tục chịu lãi suất vay theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi DNTN trả hết nợ vay. Trường hợp ông B không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền nêu trên và lãi phát sinh thì yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ của DNTN.
Về nguồn gốc tài sản mà ông B thế chấp cho ngân hàng, thấy rằng: Từ năm 2011 – 2016, ông B – Chủ DNTN có làm các hợp đồng góp vốn (DNTN là người nhận tiền vốn góp) để bán các lô nền tại khu tái định cư CITY HOME cho khoảng 50 hộ dân, với tổng cộng 98 lô nền. Cho đến thời điểm hiện tại thì bên góp vốn (các hộ dân) đã góp 90% giá trị hợp đồng cho bên nhận góp vốn là DNTN và thỏa thuận DNTN có trách nhiệm giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi các hộ dân đã hoàn thành việc góp vốn, các hộ góp vốn đã cất nhà ở ổn định hoặc xây dựng công trình khác. Thời điểm này, chủ DNTN là chủ đầu tư đối với dự án khu tái định cư CITY HOME, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chưa hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Năm 2016, ông B – Chủ DNTN được UBND thành phố CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 98 lô nền (bằng 06 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Sau khi được cấp giấy, ông B – chủ DNTN thế chấp toàn bộ 06 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ngân hàng A đảm bảo khoản nợ trên của DNTN (Ngân hàng yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản thế chấp này). Về phía các hộ dân (người mua nền) có yêu cầu phản tố yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với chủ DNTN.
Vào năm 2014, ông B – chủ DNTN dùng 18 lô nền trong tổng số 98 lô nền nêu trên để đảm bảo cho Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 190 ngày 26/12/2014 với Công ty C. Quá trình thực hiện hợp đồng, do ông B – chủ DNTN không thực hiện đúng thỏa thuận nên Công ty C yêu cầu Trung tâm trọng tài thương mại thành phố CT giải quyết và Trung tâm trọng tài thương mại thành phố CT đã ra phán quyết giao 18 lô nền nêu trên cho Công ty C phát mãi để thi hành phán quyết của trọng tài thương mại.
Quyền lợi của các bên trong vụ việc này như sau: Thứ nhất, ông B – chủ DNTN là người đi vay của Ngân hàng A, là người ký hợp đồng góp vốn với 50 hộ dân, đồng thời cũng là bên phải thi hành nghĩa vụ theo phán quyết trọng tài đối với công ty C. Hiện ông B không có ý kiến gì và đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.
Thứ hai, về phía Ngân hàng A là người đang nhận thế chấp đối với 98 lô nền (bằng 06 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Nay phía Ngân hàng A đề nghị được xử lý tài sản thế chấp.
Thứ ba, về phía 50 hộ dân hộ dân đã góp vốn tới 90% giá trị hợp đồng và đã xây nhà ở trên đất nhưng chưa được phía DNTN làm thủ tục cấp giấy. Nay họ có yêu cầu được thanh toán đủ 100% hợp đồng và được công nhận quyền sử dụng đất.
Thứ tư, về phía Công ty C đề nghị được thực hiện theo phán quyết trọng tài.
Vấn đề đặt ra, tại thời điểm giải quyết, Trung tâm trọng tài thương mại thành phố CT không đưa 50 hộ dân vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan dù họ đang ở trên phần đất tranh chấp. Do đó, phán quyết trọng tài Trung tâm trọng tài thương mại thành phố CT đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của 50 hộ dân. Vậy 50 hộ dân này có quyền yêu cầu hủy pháp quyết trọng tài hay không.
Điểm đ Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 quy định Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM quy định: (đ) “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.
Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của trọng tài.
Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba”.
Như vậy, nếu phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên và người thứ ba thì vẫn có thể bị Tòa án tuyên hủy. Thuật ngữ “người thứ ba” trong hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2014/NQ- HĐTP được hiểu như thế nào? Hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Có quan điểm cho rằng: “Người thứ ba” trong trường hợp này không phải là “người” có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án như quy định tại Khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), (Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là Khoản 04 Điều 68). Người thứ ba được hiểu theo hướng là các tổ chức quốc tế hoặc các nhóm tổ chức xã hội đại diện cho các lợi ích công cộng mà các tổ chức này là một bên khởi kiện; ví dụ: Phán quyết trọng tài có tác động liên quan đến sức khỏe cộng đồng hay phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, lợi ích của người tiêu dùng. “Người thứ ba” cũng có thể được hiểu là một quốc gia có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết của trọng tài, đặc biệt trong các vụ kiện tranh chấp đầu tư được xử bằng trọng tài vụ việc… “Người thứ ba” cũng có thể là thể nhân, tổ chức không liên quan gì đến quan hệ tranh chấp, nhưng phán quyết trọng tài đã xâm phạm lợi ích của họ, phán quyết vi phạm công lý hiển nhiên6. Tác giả hoàn toàn thống nhất với quan điểm nêu trên, cụ thể, “Người thứ ba” cần được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả thể nhân, tổ chức không liên quan gì đến quan hệ tranh chấp, nhưng phán quyết trọng tài đã xâm phạm lợi ích của họ.
Trên thực tế, khi giải quyết vụ án, tác giả nhận thấy có trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba, hoặc thỏa thuận của các đương sự có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Khi thỏa thuận, các bên đã thỏa thuận nếu có tranh chấp sẽ giải quyết theo quy định của Luật TTTM. Kết quả, sau khi có phán quyết trọng tài, phán quyết này tuy rõ ràng ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba nhưng điều luật lại không quy định cho họ được quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, mà chỉ có một trong các bên có quyền yêu cầu. Một khi các bên không yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài thì không có cách nào có thể hủy được cho dù phán quyết trọng tài đó có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Trong ví dụ mà tác giả đã nêu ở trên, quyền lợi của người thứ ba trong trường hợp này là 50 hộ dân đang ở trên phần đất tranh chấp nhưng họ lại không có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ phán quyết trọng tài, trong khi đó, các bên đương sự là ông B và công ty C thì lại muốn thực hiện theo phán quyết trọng tài nên không muốn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Do đó, quyền lợi của người thứ ba trong trường hợp này bị ảnh hưởng mà không thể khắc phục được nếu không có cơ chế cho họ có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đây chính là một trong những thiếu sót cần khắc phục ngay để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của các đương sự, nhất là người thứ ba. Đồng thời, góp phần làm cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn. Hơn nữa, việc quy định không toàn diện như vậy sẽ dẫn đến tình trạng các đương sự lợi dụng quy định của pháp luật để chọn thỏa thuận bằng con đường trọng tài.
3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về chủ thể có quyền huỷ phán quyết trọng tài
Từ những phân tích trên, tác giả thiết nghĩ cần có sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cho người thứ ba có quyền và lợi ích hợp pháp bị phán quyết trọng tài xâm phạm được quyền yêu cầu hủy pháp quyết trọng tài…
Cụ thể sửa đổi, bổ sung như sau:
Khoản 1 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 quy định về căn cứ huỷ phán quyết trọng tài như sau: “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên hoặc người thứ ba có quyền và lợi ích hợp pháp bị phán quyết trọng tài xâm phạm”.
Khoản 1 Điều 69 Luật TTTM năm 2010 quy định về quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài như sau: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên hoặc người thứ ba có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68 của luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài…”.
Từ những vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án, tác giả đưa ra vấn đề này để trao đổi và rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, cũng như đề xuất hướng xử lý của các đồng nghiệp và bạn đọc để giải quyết vướng mắc đang tồn tại./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
- Thạc sỹ, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.
- Khoản 10 Điều 3 Luật TTTM năm 2010.
- Khoản 5, Điều 4 và Khoản 5 Điều 61 Luật TTTM năm 2010.
- Vụ án đang được giải quyết tại Toà án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
- Tưởng Duy Lượng (2018), Một số vấn đề xem xét hủy phán quyết trọng tài, Tạp chí tòa án, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/mot-so-van-de-ve-xem-xet-huy-phan-quyet-trong-tai, 05/3/2018.
Trả lời