Mục lục
Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
TÓM TẮT
Bài viết phân tích các vấn đề tư pháp quốc tế của Liên minh châu Âu đối với nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng. Quyền này được bảo hộ trên toàn bộ Cộng đồng chung châu Âu. Tuy nhiên, nhiều khía cạnh được điều chỉnh bởi luật quốc gia. Hiện nay, các vấn đề nguyên tắc được điều chỉnh bởi Nghị định số 846/2007 của Hội đồng châu Âu ngày 11 tháng 7 năm 2007 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ ngoài hợp đồng (“Nghị định Rome II”). Trên thực tế, bởi vì tính thống nhất, nguyên tắc lãnh thổ không đủ để xác định luật áp dụng cho những lĩnh vực này. Vì vậy, trong bài viết này, bên cạnh trình bày các quy định hiện hành của Liên minh châu Âu, tác giả cũng bình luận và trình bày quan điểm riêng và/hoặc kiến nghị nhằm chỉnh sửa Nghị định Rome II. Cuối bài viết, tác giả tóm tắt sơ lược quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này và đưa ra một số kiến nghị cho pháp luật Việt Nam.
Xem thêm:
- Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang
- Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn
- Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn – TS. Lê Xuân Lộc & ThS. Mai Duy Linh
- Buôn bán trực tuyến hàng hóa vi phạm nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn thiện – TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng & ThS. Nguyễn Xuân Quang
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và việc thực thi tại các nước Bắc Âu – GS. Per Ole Traskman
- Bàn về vấn đề tự do chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ trách nhiệm ngoài hợp đồng trong pháp luật Liên minh Châu Âu – TS. Nguyễn Đức Vinh
- Pháp luật quốc tế, Châu Âu về hòa giải trong lĩnh vực hình sự và kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Giải thích pháp luật tại một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law kiểu Đức ở Châu Âu: Nhìn từ việc sử dụng các thuật ngữ Latinh – TS. Nguyễn Ngọc Kiện & ThS. Lê Nguyễn Gia Thiện
- Áp dụng pháp luật là gì? Đặc điểm của áp dụng pháp luật? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
TỪ KHÓA: Nguyên tắc, Áp dụng pháp luật, Bồi thường thiệt hại, Nhãn hiệu, Tạp chí Khoa học pháp lý
I. Dẫn nhập
Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp nói riêng là một vấn đề ngày càng được xem trọng trong giao dịch quốc tế ngày nay và trở thành một bộ phận quan trọng cần được nghiên cứu trong tư pháp quốc tế các nước.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ giữa xung đột pháp luật và quyền sở hữu trí tuệ? Có ba câu trả lời cho vấn đề này. Đầu tiên, luật gia phải giải quyết những vấn đề phát sinh từ sự đa dạng của luật sở hữu trí tuệ liên quan đến các vụ việc đòi bồi thường thiệt hại. Luật của các quốc gia khác nhau, và nếu xảy ra việc vi phạm nhãn hiệu hàng hóa có yếu tố nước ngoài thì phải xử lý theo hệ thống pháp luật nào và bởi tòa án nào. Thứ hai, cho dù có điều ước quốc tế, nhưng rõ ràng luật của các quốc gia thành viên tham gia điều ước chưa hẳn đã hòa hợp. Chẳng hạn, tại Cộng đồng chung châu Âu, Nghị định Rome II đã ra đời, nhưng sự hòa hợp về pháp luật của các quốc gia thành viên vẫn là một vấn đề cần giải quyết. Từ khi hình thành Cộng đồng chung châu Âu, các quy định trong các nghị định chưa bao giờ thành công trong việc thống nhất hoàn toàn luật của các quốc gia thành viên. Thứ ba, các vụ việc đòi bồi thường thiệt hại liên hệ với rất nhiều vấn đề liên quan đến luật tư nói chung, chẳng hạn như sự vô ý, nghĩa vụ phải thanh toán lãi và trách nhiệm ủy quyền… Bài báo này sẽ chỉ tập trung trình bày, phân tích luật áp dụng đối với những vụ việc yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại cho hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa theo các Quy định của Cộng đồng chung Châu Âu, tập trung tại Nghị định số 846/2007 của Hội đồng Châu Âu ngày 11 tháng 7 năm 2007 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ ngoài hợp đồng (“Nghị định Rome II”), đưa ra những ý kiến của mình xuyên suốt bài viết; và từ đó đưa ra những bài học cho Việt Nam.[1]
II. Nhãn hiệu Cộng đồng
Một nhãn hiệu sử dụng cho hàng hóa hoặc dịch vụ được đăng ký theo những điều kiện được quy định tại Quy định của Hội đồng số 207/2009 ngày 26/02/2009 về Nhãn hiệu Cộng đồng (sau đây gọi là “Quy định Nhãn hiệu Cộng đồng”) và bằng phương thức được quy định trong đó sẽ được hiểu là “Nhãn hiệu Cộng đồng”.[2]
Như vậy, luật nào sẽ được áp dụng cho những thiệt hại phát sinh từ vi phạm Nhãn hiệu Cộng đồng? Điều 102.1 của Quy định Nhãn hiệu Cộng đồng[3]quy định các biện pháp xử lý khi có một vụ việc vi phạm Nhãn hiệu Cộng đồng – cơ quan có thẩm quyền ban hành một lệnh cấm bị đơn không tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm và áp dụng các biện pháp khác theo luật quốc gia để đảm bảo lệnh cấm này được thực hiện. Điều 102.2 quy định rằng tất cả các vụ việc tranh chấp về nhãn hiệu sẽ được Tòa Nhãn hiệu Cộng đồng áp dụng luật của quốc gia thành viên nơi xảy ra hành vi vi phạm hoặc đe dọa vi phạm, bao gồm cả luật tư pháp quốc tế.
1. Vi phạm tại chỉ một quốc gia thành viên
1.1. Nhãn hiệu Cộng đồng và Nguyên tắc lãnh thổ
Có thể nói rằng quy định tại Điều 102.2 không đủ để giải quyết một vi phạm ảnh hưởng đến Nhãn hiệu Cộng đồng xảy ra tại chỉ một quốc gia thành viên. Điều 102.2 đơn thuần chỉ nêu nội dung cơ bản, đưa ra hướng dẫn chiếu cho luật áp dụng, bởi vì nó dẫn chiếu đến toàn bộ một hệ thống pháp luật của một quốc gia thành viên – bao gồm cả các quy phạm xung đột. Vì vậy, Điều 102.2 không định nghĩa luật quốc gia (nội địa) nào có thể được áp dụng, bởi vì mọi sự dẫn chiếu (renvoi)đều được chấp nhận. Vì lý do đó, quy phạm xung đột của các quốc gia thành viên xác định luật quốc gia (nội địa) có thể được áp dụng.[4]
Trên thực tế, tư pháp quốc tế cổ điển của các quốc gia thành viên không thực sự giúp được trong trường hợp Nhãn hiệu Cộng đồng. Trong tất cả pháp luật các quốc gia thành viên và công ước quốc tế, các vi phạm về quyền sở hữu công nghiệp được điều chỉnh bởi hệ thuộc lex loci protectionis.Nguyên tắc này cũng được quy định tại Nghị định Rome II tại Điều 8.1: “Luật áp dụng cho nghĩa vụ ngoài hợp đồng phát sinh từ một vi phạm quyền sở hữu trí tuệ sẽ là luật của quốc gia nơi việc bảo vệ được yêu cầu”.
Chẳng hạn một nhãn hiệu bị vi phạm bởi những hàng hóa được chào bán tại Pháp, Điều 102.2 chỉ dẫn đến luật tư pháp quốc tế Pháp. Theo luật tư pháp quốc tế Pháp, một vi phạm nhãn hiệu được điều chỉnh bởi luật của nước bảo hộ trong trường hợp Nhãn hiệu Cộng đồng, vậy cả Cộng đồng sẽ là “quốc gia” bảo hộ, cùng với những quy định đa dạng của Pháp về vi phạm nhãn hiệu. Sau khi áp dụng hệ thuộc lex loci protectionis, vẫn không rõ luật của quốc gia thành viên nào có thể được áp dụng cho những vụ việc về đòi bồi thường thiệt hại. Kết quả rõ ràng duy nhất là hành vi làm phát sinh trách nhiệm phải xảy ra trong Cộng đồng. Ngược lại, Nhãn hiệu Cộng đồng không bị xâm phạm.
Vì vậy, nguyên tắc lãnh thổ cần một quy tắc bổ sung cho quyền Sở hữu trí tuệ Cộng đồng một cách thống nhất. Nghị định Rome II tán thành việc áp dụng quy phạm xung đột cơ bản cho nghĩa vụ ngoài hợp đồng, hệ thuộclex loci delicti tại Điều 8.2.
1.2. Áp dụng nguyên tắc chung
Một quy phạm xung đột cho vụ việc đòi bồi thường thiệt hại có thể được giải quyết bởi quy tắc chung cho nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Vi phạm nhãn hiệu hàng hóa có tính chất của hành vi vi phạm ngoài hợp đồng. Nguyên tắc cơ bản cho hành vi vi phạm ngoài hợp đồng là hệ thuộc lex loci delicti(Điều 3.1 của Nghị định Rome II). Luật áp dụng là luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm. Nghị định Rome II có sửa đổi quy tắc này một chút cho vi phạm quyền Sở hữu trí tuệ Cộng đồng tại Điều 8.2:
“Trong trường hợp một nghĩa vụ ngoài hợp đồng phát sinh từ một vi phạm quyền sở hữu công nghiệp Cộng đồng thống nhất, các biện pháp Cộng đồng có liên quan sẽ được áp dụng. Đối với bất kỳ vấn đề nào không được điều chỉnh bởi biện pháp đó, luật áp dụng sẽ là luật của quốc gia thành viên nơi xảy ra hành vi vi phạm.”
Đối với những vi phạm thông thường, chẳng hạn như vi phạm quyền nhân thân, nơi xảy ra hành vi vi phạm và nơi hành vi làm phát sinh trách nhiệm xảy ra có thể được xác định tại nhiều quốc gia khác nhau. Liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, nơi hành vi làm phát sinh trách nhiệm và nơi vi phạm luôn trùng nhau: một nhãn hiệu Cộng đồng chỉ có thể bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng nó theo phương thức được trao cho người chủ sở hữu một nhãn hiệu. Bất cứ nơi đâu một nhãn hiệu bị xâm phạm, hành vi gây ra trách nhiệm sẽ xảy ra ở đó. Vì vậy, hệ thuộc lex loci delictixác định rõ ràng luật áp dụng miễn là việc vi phạm xảy ra chỉ ở một Quốc gia Thành viên. Hơn thế nữa, hệ thuộc lex loci delictiquy định một giải pháp phù hợp liên quan đến quy tắc thẩm quyền xét xử của Quy định Nhãn hiệu Cộng đồng. Điều 97.5 của Quy định Nhãn hiệu Cộng đồng cho phép các vụ kiện được đưa ra trước tòa án của Quốc gia Thành viên nơi hành vi vi phạm đã được thực hiện hoặc đe dọa thực hiện. Nếu tòa án này được chọn, áp dụng luật của Quốc gia Thành viên này là hoàn toàn phù hợp.[5]
1.3. Tự do lựa chọn
Một trong những vấn đề quan trọng trong các vụ việc này là liệu các bên có được trao quyền tự do lựa chọn luật áp dụng hay không. Từ quan điểm tự do, không cần bàn luận việc tự do lựa chọn luật áp dụng nên được cho phép hay không. Vấn đề là liệu có những lý do hợp lý nào để cấm thỏa thuận về luật áp dụng hay không. Những nhà thực thi pháp luật Đức nghiêng về hướng tự do lựa chọn. Điều này thể hiện nhu cầu thực tế đối với thỏa thuận đó.
Sự thật là tự do lựa chọn trong một vụ việc vi phạm nhãn hiệu là đối tượng của những bảo lưu tương tự như trong những vụ việc khác. Hơn thế nữa, về nguyên tắc lãnh thổ, luật của một quốc gia không phải là thành viên không thể được lựa chọn; ngược lại, tính lãnh thổ của nhãn hiệu có thể dễ dàng bị phá vỡ.[6]
1.4. Thay thế quy tắc chung
Một vấn đề quan trọng khác nữa là liệu quy tắc chung có thể được thay thế nếu xuất hiện các yếu tố cho thấy một hệ thống pháp luật áp dụng khác phù hợp hơn.
Nếu trong trường hợp vi phạm nhãn hiệu tại Pháp, cả hai bên đều cư trú tại một quốc gia thành viên khác (không phải Pháp), có thể đặt ra câu hỏi liệu mối liên hệ với quốc gia thành viên này có chặt chẽ hơn liên hệ với quốc gia xảy ra hành vi vi phạm lex loci delicti.Điều 3.2 của Nghị định Rome II trả lời cho khẳng định câu hỏi này cho mọi loại hành vi vi phạm, bởi vì giải quyết vụ việc theo pháp luật của nước nơi cư trú luôn dễ hơn.
Việc áp dụng luật nơi cư trú chung cũng hòa hợp với quy tắc xác định thẩm quyền xét xử theo Điều 97.1 của Quy định Nhãn hiệu Cộng đồng. Điều khoản này quy định rằng các thủ tục liên quan đến vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại sẽ được đưa ra trước tòa án của quốc gia thành viên nơi bị đơn cư trú. Nếu nguyên đơn và bị đơn cư trú tại cùng một quốc gia thành viên, thủ tục tố tụng sẽ được điều chỉnh bởi luật của quốc gia này. Nếu cả hai cư trú ở cùng một quốc gia không phải là thành viên, hệ thuộc lex loci delicti điều chỉnh vụ việc.[7]
Nếu có một quan hệ hợp đồng giữa các bên được điều chỉnh bởi luật của một quốc gia thành viên, luật này cũng sẽ bị áp dụng cho hành vi ngoài hợp đồng liên quan đến hợp đồng đó, để ngăn chặn sự chia sẻ pháp luật. Nghị định Rome II trong vấn đề này cũng ít bao quát, đặc biệt, trong trường hợp quan hệ tồn tại trước đó. Do đó, theo quan điểm của tác giả, một quy định mới tại Điều 8 của Nghị định Rome II có lẽ sẽ có hiệu quả hơn.
2. Vi phạm ở nhiều quốc gia thành viên
Như phân tích ở trên, các nguyên tắc xung đột cho các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại khá phức tạp nếu vi phạm phát sinh ở chỉ một quốc gia thành viên. Và việc áp dụng những nguyên tắc xung đột sẽ rất khó hoàn toàn khó khi những vi phạm phát sinh từ hơn một quốc gia thành viên. Nghị định Rome II không có quy định đặc biệt cho những vụ việc này. Những điểm sau đây vì vậy sẽ được hiểu như sự phân tích hệ thuộc lex loci delictiđược quy định tại Điều 8.2 của Nghị định Rome II.
2.1. Áp dụng nhiều hệ thống pháp luật (Học thuyết Mosaic)[8]
Một giải pháp cho những vi phạm liên quốc gia là áp dụng hệ thống pháp luật của tất cả các quốc gia thành viên nơi xảy ra hành vi vi phạm.
Học thuyết này được áp dụng bởi các tòa án Đức, Hà Lan và Anh cho những vi phạm sáng chế châu Âu, nhưng chỉ liên quan đến những giải pháp khẩn cấp tạm thời. Một ví dụ: mặc dù có thể bắt đầu các thủ tục biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Hà Lan, Đức hoặc Pháp tại một tòa án Hà Lan, tòa án phải áp dụng luật Hà Lan, Đức và Pháp để thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đối với sáng chế châu Âu, việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật là phù hợp, bởi vì sáng chế châu Âu kéo theo quyền sở hữu trí tuệ không có tính chất thống nhất, nhưng là một nhóm các sáng chế quốc gia. Vì lý do đó, những nguyên tắc áp dụng cho sáng chế châu Âu không nên được chuyển sang áp dụng cho nhãn hiệu châu Âu.
Về nguyên tắc “hòa hợp pháp luật”, học thuyết Mosaic không gặp khó khăn gì. Nếu mọi tòa án áp dụng luật nội địa của mỗi quốc gia thành viên, giải pháp thống nhất có thể đạt được. Liên quan đến các quy tắc xác định thẩm quyền xét xử theo quy tắc nhãn hiệu cộng đồng, học thuyết Mosaic cũng có vẻ phù hợp. Điều 97.1 và 98.1 quy định thẩm quyền xét xử cho tòa án của các quốc gia thành viên nơi bị đơn cư trú cho những thiệt hại phát sinh từ bất kỳ quốc gia thành viên nào. Theo học thuyết Mosaic, tòa án sẽ áp dụng luật của tất cả các quốc gia thành viên nơi hành vi gây thiệt hại xảy ra. Nguyên tắc chung sẽ được áp dụng cho thẩm quyền xét xử phụ trợ ở Điều 97.2 và 97.3. Tòa án của quốc gia thành viên nơi hành vi thiệt hại xảy ra (Điều 97.5) sẽ có thẩm quyền xét xử chỉ đối với những hành vi xảy ra trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên nơi có tòa án. Học thuyết Mosaic sẽ cho phép tòa án áp dụng luật của quốc gia.
Tuy nhiên, học thuyết Mosaic lại có những điểm bất lợi lớn. Nếu tòa án phải áp dụng nhiều hệ thống pháp luật, các bên sẽ chịu chi phí pháp lý cao hơn. Nếu một nguyên đơn phải kiện bằng 4 hệ thống pháp luật, anh ta sẽ cần 4 luật sư để hoàn thành thủ tục đó. Anh ta cũng có thể yêu cầu nhiều ý kiến chuyên môn. Hơn thế nữa, thủ tục tố tụng sẽ tốn thời gian hơn, bởi vì phức tạp hơn. Thêm vào đó, an toàn pháp lý sẽ bị đe dọa nếu có nhiều hệ thống pháp luật lại có thẩm phán không quen thuộc xử lý vụ án. Do đó, theo quan điểm riêng của tác giả, việc áp dụng học thuyết này trên thực tế sẽ gây khó khăn cho bên nguyên đơn hơn là tạo thuận lợi cho họ.
2.2. Áp dụng một hệ thống pháp luật riêng biệt[9]
Áp dụng một hệ thống pháp luật nội địa cho những vi phạm tại nhiều quốc gia là một giải pháp giúp tránh được những bất lợi của học thuyết Mosaic. Lợi ích của giải pháp này là tính linh động. Nếu chỉ một hệ thống pháp luật được áp dụng, chi phí pháp lý sẽ thấp hơn và thủ tục tố tụng sẽ nhanh hơn. Áp dụng chỉ một hệ thống pháp luật cũng có nghĩa là tạo điều kiện cho sự an toàn pháp lý. Dự đoán kết quả của một tòa án áp dụng một hệ thống pháp luật luôn dễ hơn rất nhiều so với dự đoán kết quả của một thủ tục tòa án theo nhiều hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là luật nào sẽ được áp dụng cho những trường hợp này. Hệ thống pháp luật của hai quốc gia thành viên có thể được hiểu: liệu pháp luật của nơi cư trú của bị đơn hay luật nơi những hành vi gây thiệt hại quan trọng nhất xảy ra. Có nhiều tranh cãi và ý kiến chống lại cả hai giải pháp như sau:
2.2.1. Luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm quan trọng nhất
Từ quan điểm kinh tế, việc áp dụng luật của quốc gia nơi xảy ra hành vi vi phạm quan trọng nhất có vẻ phù hợp. Bị đơn đã kiếm tiền và muốn kiếm tiền chính ở quốc gia này bằng cách vi phạm nhãn hiệu của nguyên đơn. Vì vậy, bị đơn nên bồi thường thiệt hại theo luật của quốc gia thành viên đó. Giải pháp này có thể đạt được nhờ một sự giải thích có sửa đổi của hệ thuộc lex loci delicti.
Điều 98.1 quy định thẩm quyền xét xử cho các vi phạm xảy ra “ở bất kỳ quốc gia thành viên nào” chỉ có thể được xét xử ở tòa án quốc gia thành viên nơi bị đơn cư trú. Các tòa án của quốc gia thành viên nơi xảy ra hành vi vi phạm chỉ có thẩm quyền xét xử đối với những hành vi vi phạm hay đe dọa vi phạm trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia thành viên nơi có tòa án. Nếu quốc gia xảy ra vi phạm quan trọng nhất và quốc gia nơi cư trú của bị đơn khác nhau, tòa án sẽ phải áp dụng luật của một quốc gia thành viên khác. Trong trường hợp này, lợi ích của học thuyết Mosaic gần như bị loại bỏ hoàn toàn.
Luận điểm mạnh nhất chống lại việc áp dụng luật của quốc gia nơi xảy ra hành vi vi phạm quan trọng nhất là quy tắc này không giúp giải quyết những trường hợp khó. Ví dụ, nếu một nhãn hiệu được sử dụng trong quảng cáo trên truyền hình tại nhiều quốc gia, không thể xác định được đâu là nơi xảy ra hành vi vi phạm quan trọng nhất.
2.2.2. Luật của quốc gia nơi cư trú của bị đơn
Một giải pháp có thể được áp dụng là luật của quốc gia nơi bị đơn cư trú. Học thuyết này có thể bổ sung vào quy tắc xác định thẩm quyền xét xử theo Điều 97.1 của quy định nhãn hiệu cộng đồng ở góc độ thực tiễn. Các tòa án của quốc gia thành viên nơi bị đơn cư trú là những tòa án duy nhất có thẩm quyền xét xử những vi phạm xảy ra trong bất kỳ quốc gia thành viên nào. Thủ tục tố tụng trước tòa án này có thể kết thúc trong một thời gian hợp lý với chi phí pháp lý thấp. Vì vậy, các tòa án nên áp dụng luật của chính quốc gia họ. Quy tắc này bảo đảm an toàn pháp lý, bởi dễ áp dụng và đưa ra một kết quả rõ ràng. Quy tắc này tôn trọng nguyên tắc “hòa hợp pháp luật” và tránh sự chia rẽ luật pháp.
Tuy nhiên, vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại tại quốc gia thành viên nơi xảy ra hành vi vi phạm nên được điều chỉnh bởi luật của chính nước đó. Ngược lại, quy định này làm mất đi tác dụng tự do lựa chọn cơ quan có thẩm quyền xét xử được quy định tại Điều 97.1 và 97.5. Hơn thế nữa, đối với những vụ kiện này, hệ thuộc lex loci delictiđem kết quả rõ ràng hơn.
Một số đông các học giả đã đề nghị một quy tắc tương tự cho những vi phạm quyền nhân thân ở nhiều quốc gia. Quy tắc chọn luật cho những trường hợp này được thảo luận sôi nổi sau án lệ Shevill vs. Press Alliancecủa Tòa án Công bằng châu Âu[10]. Trong quyết định này, Tòa án Công bằng phát triển một nội dung thẩm quyền xét xử cho những vi phạm tại nhiều quốc gia bằng cách phân tích Điều 5.3 Nghị định Brussels.[11]
“Nạn nhân bị phỉ báng bởi một bài báo xuất bản ở nhiều quốc gia thành viên có thể kiện đòi bồi thường thiệt hại chống lại nhà xuất bản có thể trước tòa án của quốc gia thành viên nơi nhà xuất bản có ấn bản phỉ báng được thành lập sẽ có thẩm quyền xét xử thiệt hại cho toàn bộ những tổn thương do việc phỉ báng gây ra, hoặc trước tòa án của quốc gia thành viên nơi các ấn phẩm được phân phối và nơi nạn nhân chịu những tổn thương đến danh tiếng, sẽ có thẩm quyền xét xử chỉ đối với những tổn thương tại quốc gia có tòa án có thẩm quyền”.
Tòa án không đặt ra vấn đề xung đột luật, nhưng các học giả kết luận rằng quy tắc chọn luật phải tuân thủ quy tắc thẩm quyền xét xử.
Tuy nhiên, giải pháp này cũng có một số điểm bất lợi. Đầu tiên, luật áp dụng, thủ tục tố tụng tại quốc gia nơi bị đơn cư trú khác với tại quốc gia nơi xảy ra hành vi vi phạm. Tại đây, tòa án phải áp dụng luật của mình dù vụ việc liên quan đến kiện đòi toàn bộ thiệt hại hay chỉ một phần thiệt hại tại quốc gia đó.
Một sự không thuận tiện khác là: nếu không có hành vi vi phạm xảy ra ở quốc gia nơi bị đơn cư trú, sự kết nối của hành vi với quốc gia này không gần gũi lắm. Nhưng những trường hợp này khá lý thuyết. Thông thường, nếu một người thực hiện một hành vi bị đánh giá là vi phạm nhãn hiệu hàng hóa tại nơi cư trú của anh ta. Miễn là hành vi vi phạm xảy ra ở quốc gia này, giải pháp được ủng hộ ở đây có thể đạt được bởi sự giải thích hệ thuộc lex loci delicti.
Khi cân nhắc những thuận lợi và bất lợi, dường như giải pháp tốt hơn chính là áp dụng luật nơi cư trú của bị đơn. Nhưng cần lưu ý rằng nguyên tắc này chỉ áp dụng nếu nguyên đơn chọn bắt đầu thủ tục tố tụng pháp lý tại một tòa án quốc gia nơi bị đơn cư trú. Nếu anh ta muốn được áp dụng luật của quốc gia nơi hành vi vi phạm xảy ra, anh ta có thể bắt đầu vụ kiện tại các tòa án của những quốc gia này.
2.2.3. Tự do lựa chọn, thay thế quy tắc chung
Về tự do lựa chọn và thay thế quy tắc chung, những nguyên tắc giống nhau áp dụng cho một vi phạm tại chỉ một Quốc gia Thành viên. Nếu cả hai bên cư trú tại cùng một Quốc gia Thành viên, luật của quốc gia này nên được áp dụng. Thêm vào đó, nên cho phép việc chọn luật bởi các bên. Nếu các bên kết nối bởi một mối quan hệ đang tồn tại, đặc biệt một hợp đồng, luật của mối quan hệ đó nên được điều chỉnh cho những vi phạm này. Nhưng cần lưu ý rằng việc áp dụng những quy tắc của Điều 8 Nghị định Rome II cần phải được sửa đổi.
III. Kết luận
Như vậy, quy định pháp luật của Cộng đồng chung châu Âu đã thừa nhận hiện tượng xung đột pháp luật trong quan hệ sở hữu trí tuệ và đưa ra cách giải quyết xung đột pháp luật. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này, cho đến nay hiện tượng xung đột pháp luật trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng, đã được thừa nhận và điều chỉnh hay chưa, được điều chỉnh như thế nào?
Bộ luật Dân sự Việt Nam (sau đây gọi là “BLDS”) hiện hành điều chỉnh quan hệ sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài theo Điều 774, 775 và 776. Trong đó Điều 775 điều chỉnh quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài “Quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài đối với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, đối tượng của quyền đối với giống cây trồng đã được Nhà nước Việt Nam cấp văn bằng bảo hộ hoặc công nhận được bảo hộ theo quy định của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Quy định này đã gián tiếp thừa nhận hiện tượng xung đột trong quan hệ sở hữu công nghiệp, bao gồm nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, luật chưa đưa ra hướng giải quyết thấu đáo. Quy định một bên như trên chỉ hướng việc giải quyết các quan hệ sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam; tuy nhiên có những trường hợp có yếu tố nước ngoài, liệu có thể áp dụng luật nước ngoài một cách đương nhiên hoặc theo thỏa thuận của các bên? Quy định pháp luật điều chỉnh về luật áp dụng cho trường hợp này còn bỏ ngỏ. Điều này cho thấy Việt Nam cần bổ sung, sửa đổi các quy định hiện hành về quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài. Tác giả có một số kiến nghị cụ thể như sau:
Thứ nhất,để đảm bảo việc bồi thường thiệt hại có hiệu quả hơn, cần hoàn thiện hệ thống các quy phạm xung đột để điều chỉnh các quan hệ sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam bằng cách bổ sung các quy phạm xung đột nhằm xác định pháp luật áp dụng đối với vấn đề bồi thường thiệt hại do các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài bên cạnh nguyên tắc chung về xác định hệ thống pháp luật được áp dụng đối với quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài được ghi nhận tại Điều 773 BLDS 2005. Tương tự như pháp luật của Liên minh châu Âu, có thể thêm một nguyên tắc bổ sung là luật nơi cư trú của bị đơn có thể được áp dụng, trong trường hợp các bên có nơi cư trú chung; bởi vì giải quyết theo pháp luật của nước nơi cư trú chung luôn thuận lợi nhất cho các bên đương sự. Chẳng hạn, một công ty Việt Nam là A vi phạm nhãn hiệu hàng hóa của công ty Việt Nam là B tại Campuchia, nhãn hiệu hàng hóa này được đăng ký và bảo hộ tại Campuchia. Tuy nhiên, vì cả hai đều có nơi cư trú chung tại Việt Nam, việc công ty A kiện công ty B tại Việt Nam nên được chấp thuận vì thuận lợi cho cả hai bên. Và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, nên cho phép các bên tự do lựa chọn hệ thống pháp luật áp dụng cho bồi thường thiệt hại đối với vi phạm quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng.
Thứ hai, từ kinh nghiệm của Cộng đồng chung Châu Âu, tác giả cho rằng một đạo luật riêng biệt về Tư pháp quốc tế Việt Nam, nơi tập hợp những quy phạm giải quyết xung đột pháp luật trong mọi lĩnh vực dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và sở hữu trí tuệ nói riêng cần phải được nghiên cứu, xem xét ban hành nhằm tạo sự thống nhất có hệ thống có việc giải quyết các xung đột pháp luật.
CHÚ THÍCH
* ThS. Luật học, Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Josef Drexl et al, Intellectual Property and Private International Law – Heading for the Future, Axel Metzger, Community IP Rights & Conflict of Laws – Community Trademark, Community Design, Community Patent – Applicable Law for Claims for Damages, Hart Publishing, 2005, tr. 215.
[2] Điều 1.1 của Quy định của Hội đồng năm 207/2009 ngày 26/02/2009 về Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng.
[3] Quy định của Hội đồng năm 207/2009 ngày 26/02/2009 về Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng.
[4] Chú thích 1, tr. 217-217.
[5] Chú thích 1,tr. 218.
[6] Đây là một trong những lý do tại sao quy phạm xung đột của quyền sở hữu trí tuệ Công đồng nên quy định nguyên tắc lãnh thổ như là nguyên tắc chung và hệ thuộc lex loci delicti, tự do lựa chọn, v.v. như là nguyên tắc bổ sung. Điều 8 của Nghị định Rome II quy định theo cấu trúc này.
[7] Chú thích 1, tr. 219.
[8] Chú thích 1, tr. 220.
[9] Supra note 1, pp.222.
[10] Quyết định của Tòa án Công bằng Châu Âu (ECJ), 07/03/1995, Case C-68/93,Shevill v.Presse Alliance S.A., [1995] ECR I-415.
[11] Công ước ngày 27/09/1968 về Thẩm quyền xét xử và Thi hành Bản án trong lĩnh vực Dân sự và Thương mại. Hiện nay là Điều 5.3 của Quy định Hội đồng (EC) số 44/2001 ngày 22/12/2000 về thẩm quyền xét xử và công nhận và thi hành các bản án trong lĩnh vực dân sự và thương mại.
- Tác giả: ThS. Lê Trần Thu Nga
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2014 (83)/2014 – 2014, Trang 58-64
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý